Vào vài ngày trước lễ Giao Thừa, người Đức (và người dân ở các nước sử dụng tiếng Đức như Áo, Thụy Sỹ) thường chúc nhau một câu là: – Wir wünschen euch einen guten Rutsch ins Neue Jahr!– Rutsch/Rutscht gut rein ins Neue Jahr!– Guten Rutsch! Đây là một câu chúc được phổ biến tại Đức từ khoảng năm 1900 đến nay. Tuy nhiên, động từ “rutschen” hay danh từ “Rutsch” nguyên bản lại không có nghĩa là “trượt” hay “lướt”, mà có hai cách giải thích cho xuất xứ của câu thành ngữ này. Một là có thể nó bắt nguồn từ từ Do Thái cổ “Rosch” với nghĩa “đầu tiên/sự khởi đầu” (tiếng Đức là Kopf hoặc Anfang) để chúc cho một khởi đầu may mắn. Mặt khác, nghĩa của nó có thể là “chuyến đi” (Reise/Fahrt) để chúc một chuyến đi vui vẻ bước sang Năm Mới. Vì vậy, từ năm 1820, người ta đã thường chúc nhau “guten (glücklichen) Rutsch“ (nghĩa là „gute Reise“), hầu như để ám chỉ một chuyến đi ngắn bằng xe trượt tuyết/xe trượt băng (có ngựa kéo), sau này thì ngụ ý nói về một chuyến đi bằng tàu hỏa. Dù thế nào thì khi nói đến từ “rutschen”, chắc chắn ai trong chúng ta cũng sẽ nghĩ ngay đến hành động trượt hoặc lướt một cách nhẹ nhàng, êm ái, (hi vọng) không gặp nhiều chướng ngại vật … – đặc biệt là vào giây phút chúng ta đón chào thời khắc chuyển giao giữa Năm Cũ và Năm Mới, phải không các bạn?? Một số cách chúc mừng năm mới trong tiếng Đức: 1. Alle Jahre wieder, Weihnachten und Silvester.Wir stehen da und überlegen uns, was werden wir im nächsten Jahr ändern.Vorsätze, Gedanken werden hin und her geschoben.Wenn wir aber ehrlich sind, kommen viele Vorsätze alle Jahre wieder.Dabei ist im Leben nur Gesundheit und Glück wichtig.Der Rest kommt, wann es kommen soll.Einen guten Rutsch ins neue Jahr! 2. Ich wünsche einen schönen Neustart.Beginnen soll es mit einem schönen Feuerwerk.Gesundheit und Liebe soll an Deiner Seite stehen,dazu von mir viel Glück! 3. Das alte Jahr ist jetzt bald futsch, drum wünschen wir einen guten Rutsch. Glück soll uns das neue Jahr gestalten und wir bleiben hoffentlich die alten! 4. Lasst die Korken knallen. Lasst die Sektgläser klingen. Lasst uns nun das neue Jahr beginnen. Bleibt fröhlich und gesund: 365 Tage, das sind 8760 Stund. 5. Für das Neue Jahr wünsche ich dir soviel Glück, wie der Regen Tropfen hat, soviel Liebe wie die Sonne Strahlen hat und soviel Gutes wie der Regenbogen Farben hat! 6. Ich bin die kleine Silvestermaus,steh leider nicht vor deinem Haus.Drum schick ich dir aus weiter Ferne,eine Hand voll Zaubersterne.Alles Gute im 2016! 7. Wenige Stunden sind es nur zum Neuen Jahr. Einen guten Rutsch, viel Erfolg und Gesundheit im 2016. Das wünsch ich dir/euch von Herzen! 8. Sonne, Mond und Sterne,alles ist weit in der Ferne.Doch was ich wünsche, das ist ganz nah,ein glückliches, gesundes Neues Jahr! 9. Was wädelt so spät durch Nacht und Wind?Es ist ein Schwein, das lacht und singt!Es wünscht dir – ist ja klar: Viel Glück und Liebe im Neuen Jahr! 10. Am Himmel leuchten die Sterne so klar,ich wünsch dir ein frohes Fest und ein gutes Neues Jahr!… Tác giả: Cẩm Chi
Yearly Archives: 2021
Điều này có vẻ ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều người mỗi lần băn khoăn về việc chọn trường, chọn ngành trước khi đi du học. Trường A có xếp hạng cao hơn trường B không? Trường C có phải trường tốt nhất bang không? Trường D có phải trường trong top thế giới không? Khối 9 trường đại học kĩ thuật hàng đầu tại Đức (TU9) có phải cũng danh giá như Ivy League ở Mỹ không?… Khá nhiều bạn trẻ thật sự chọn cho mình trường để theo học tại Đức dựa vào Hochschulranking (Bảng xếp hạng các trường đại học) và hi vọng thông qua đó có thể có được những cơ hội thăng tiến tốt hơn trong sự nghiệp. Câu hỏi đặt ra là: điều này có thật sự đáng tin hay không? Trước khi đưa ra nhận xét chủ quan, tại sao chúng ta không tham khảo trực tiếp ý kiến từ những người có trách nhiệm với việc tuyển dụng nhân sự cho các công ty, tập đoàn khác nhau tại Đức nhỉ? Dưới đây là các câu trả lời cho câu hỏi: “Bạn nghĩ gì nếu sinh viên chọn trường đại học dựa vào Hochschulranking?” 1. Meral Eichwald, Human Resources, Stryker Osteosynthesis “Bất kì hình thức nào của việc cân nhắc những lựa chọn trường đại học hoặc nội dung khóa học đều có ý nghĩa. Tuy nhiên, bạn cũng có thể tự nâng hạng việc học của mình tại các trường đại học có thứ hạng thấp hơn bằng cách sớm tiếp cận với thực tế thông qua việc làm thực tập, những công việc tạm thời hay các khóa học bổ sung, lấp đầy các khoảng trống kiến thức và qua đó tự mình định hình việc mình cần học những kiến thức gì khi còn đi học”. 2. Alfred Lukasczyk, Personalmarketing, Evonik Industries AG “Tôi cho rằng việc các sinh viên tương lai xem xét kĩ lưỡng việc chọn trường đại học là rất quan trọng. Thành công lâu dài chỉ có thể đạt được ở nơi mà tôi cảm thấy thoải mái mà thôi. Bảng xếp hạng trường đại học rõ ràng có thể được xem là một yếu tố định hướng. Tuy vậy, ta phải luôn đặt ra một câu hỏi nghiêm túc cho bảng xếp hạng này: Những tiêu chí nào đã được để ý tới? Trường nào đã tham gia vào khảo sát để làm ra bảng xếp hạng này? Để có thể làm rõ những câu hỏi này, điều đặc biệt quan trọng là phải trả lời được rằng: Điều gì ở một trường đại học là quan trọng nhất với tôi?” 3. Ass. Jur. Nathalie Schröder. Geschäftsführung, GMConsultingspartner “Về cơ bản, tôi ủng hộ việc đánh giá các trường đại học cũng như công khai các đánh giá này. Một hình thức cạnh tranh công khai như vậy sẽ giúp tạo ra động lực thúc đẩy các trường liên tục cải thiện chất lượng giáo dục cũng như cung cấp cho tất cả những người quan tâm một cái nhìn tổng quan về “Tình hình thị trường”. Tuy nhiên, cá nhân tôi không coi việc lựa chọn trường đại học dựa trên xếp hạng là việc nhất định phải làm. Bản thân một trường đại học có thể được đánh giá tương đối thấp – nhưng một ngành học cụ thể nào đó tại trường nhờ vào đội ngũ giảng viên cực kì tận tâm và nội dung học sáng tạo có thể trở thành một “Lựa chọn tuyệt vời” cho các bạn”. 4. Sehnaz Özden, Continental Recruiting Center weltweit, Continental AG “Dĩ nhiên là một bảng xếp hạng trên mọi góc độ đều có thể được coi là kim chỉ nam và cho thấy những điểm quan trọng nhất của các trường đại học. Tuy vậy, mỗi người nên tự quyết định xem họ có thật sự muốn dựa theo các tiêu chí của bảng xếp hạng đó hay không”. 5. Tina Wemer, HR und Recruiting, INVENSITY GmbH “Bạn không nên để mình bị ảnh hưởng bởi thứ hạng của các trường đại học khi chọn trường. Điều thường xảy ra là những người chịu trách nhiệm tuyển dụng nhân sự chưa bao giờ nhìn thấy những trường đại học được nhắm tới từ phía bên trong. Ngược lại, lời khuyên từ bạn bè, gia đình hay từ các bài viết chia sẻ kinh nghiệm từ các diễn đàn trên Internet là cơ sở quan trọng để ra quyết định. Một lựa chọn nữa là tận dụng các sự kiện mang tên “Ngày mở cửa” của chính các trường đại học để có thể trực tiếp có được cái nhìn rõ ràng hơn về công tác giảng dạy tại trường. Suy cho cùng, mỗi sinh viên tương lai nên xem xét kĩ lưỡng xem sở thích của anh ta là gì, liệu anh ta có phải người thích sống tại một thành phố nhất định nào đó không hay liệu cơ hội tiếp xúc thực tế cũng như việc học theo các nhóm nhỏ có quan trọng với anh ta không. Trong trường hợp cuối cùng được nhắc tới ở trên, các trường đại học học khoa học ứng dụng nên được ưu tiên hơn là những trường đại học lớn”. 6. Ulrich Breimann, Human Resources, EMC Deutschland GmbH “Các bảng xếp hạng trường đại học rõ ràng là một tiêu chí tốt khi lựa chọn cơ sở đào tạo. Nhưng ngay cả một tấm bằng loại ưu từ một trường đại học danh tiếng cũng không phải là sự đảm bảo duy nhất cho “công việc mơ ước”. Ngoài việc đào tạo kiến thức chuyên ngành, điều quan trọng hơn là những kĩ năng mềm cần thiết cho việc thực tế hóa những kiến thức đã học và cả những kĩ năng cá nhân mà một ứng viên xin việc có thể tự trang bị cho bản thân. Thế nên, điều quan trọng hàng đầu là nội dung học và các điều kiện hỗ trợ của một ngành học phải phù hợp với người học và người đó có thể tạo ra hiệu quả tối ưu – như vậy anh ta mới có thể thành công trong việc tìm kiếm một công việc phù hợp”. 7. Daniela Petschick, Personal, THOST Projektmanagement für Bauten und Anlagen GmbH “Việc bạn học trường nào không phải là vấn đề cần tranh cãi khi chúng tôi lựa chọn ứng viên. Để đánh giá một ứng viên, chúng tôi lấy các hội thảo, bài giảng mà anh ta đã tham dự cũng như tổ hợp môn mà anh ta đã học làm tiêu chí hàng đầu.” 8. Carlo Retterath, Human Resources Management, Deutsche Post Consult GmbH “Tôi cho rằng các bảng xếp hạng trường đại học là vấn đề khá nan giải, vì rất ít khi chúng ta biết được chúng được tạo ra dựa trên những tiêu chí nào và nhóm đối tượng nào đã được thăm dò để cho ra kết quả như vậy. Nếu đối tượng được hỏi là sinh viên, kết quả cho ra đương nhiên sẽ hoàn toàn khác so với khi hỏi giáo sư hay các công ty. Điều quan trọng hơn cả khi chọn trường nên là ấn tượng cá nhân cũng như cảm giác “tâm can mách bảo”, thay vì lựa chọn một nơi mà bạn sẽ dành nhiều năm cuộc đời của mình ở đó chỉ thuần dựa vào các tỉ lệ phần trăm”. 9. Peter Schürholz, Personalrekrutierung, Lufthansa Technik AG “Ở đây, ta nên xem xét kĩ hơn việc xếp hạng này dựa trên tiêu chí nào và liệu những tiêu chí này có phù hợp với bạn hay không. Theo quan điểm của tôi, ta không nên quá phụ thuộc vào thứ hạng của các trường đại học khi lựa chọn trường cho mình”. 10. Diplom-Wirtschaftsjurist (FH) Marc Seydewitz, Personal, Deutsche Bahn AG – DB International GmbH “Điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các bảng xếp hạng trường đại học không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực tế. Mỗi sinh viên nên làm quen với từ khóa “Mức độ chính xác”. Nhiều trường đại học nhỏ hơn cũng dạy rất tốt”. Trên tư cách là một cựu sinh viên và hiện đang làm trong một công ty về lĩnh vực sản xuất ô tô, mình muốn nói lên vài quan điểm cá nhân về giáo dục Đức và cơ hội việc làm sau này. Đầu tiên, như các bạn đã biết, 14/16 bang của Đức đến thời điểm này vẫn miễn hoàn toàn học phí bậc đại học, kể cả là cho sinh viên nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc, nền giáo dục Đức không thật sự được coi là một mảng trong kinh doanh hay quảng bá đất nước, như giáo dục Anh, Mỹ, Úc hay Canada. Với nền giáo dục như vậy, khi so sánh với các nước kể trên, số lượng học bổng tại Đức sẽ không có nhiều, tiêu chuẩn đầu vào sẽ dễ hơn rất nhiều nhưng tiêu chuẩn đầu ra thì sẽ không dễ chút nào cả. Từ trải nghiệm cá nhân của mình với ngành Elektrotechnik và thông qua tham khảo từ bạn bè học nhiều ngành khác nhau từ khắp nơi trên nước Đức, mình cho rằng, việc bạn học 1 trường đại học bất kì tại Đức, bất kể ngành nào, và có thể ra được trường đã là một thành công lớn rồi. Nếu bạn muốn gia tăng cơ hội xin việc, như các chuyên gia ở trên đã nói, rất nhiều yếu tố được xem xét tới chứ không chỉ đơn giản là bạn học trường nào. Dĩ nhiên, nếu tốt nghiệp một trường có danh tiếng, cơ hội để bạn tạo ra ấn tượng đầu tiên với nhà tuyển dụng giữa hàng loạt các ứng viên khác là tốt hơn. Tuy nhiên, điều đó mới chỉ mang đến cho bạn cơ hội được tham gia vào các vòng phỏng vấn mà thôi. Khi đã tham gia vào các vòng phỏng vấn, yếu tố quyết định xem bạn có được nhận hay không lại là kiến thức cá nhân, các kĩ năng mềm, khả năng xử lý tình huống và đương nhiên, cả ngoại ngữ của bạn nữa. Những thứ này đáng tiếc là chúng ta không thể học quá nhiều từ trường lớp, mà phải va chạm, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài, đặc biệt là trong các môi trường chuyên nghiệp. Vì thế, lời khuyên của mình là: hãy sớm định hướng xem sau này bản thân muốn làm về mảng gì và cố gắng cải thiện các kĩ năng chuyên biệt cho mảng đó cũng như tạo ra cho mình một bản CV đẹp bằng việc đi làm thực tập càng nhiều càng tốt. Để có được các cơ hội thực tập, việc các bạn có thể làm cụ thể đầu việc gì (ví dụ như biết lập trình một vài ngôn ngữ phổ thông, sử dụng tốt Microsoft Office, đặc biệt là Excel,…) và có khả năng ngôn ngữ tốt là rất quan trọng. Dĩ nhiên, các bạn cũng có thể có cơ hội thực hành dựa trên những chương trình liên kết của trường với các công ty, viện nghiên cứu khác hay có thể làm nghiên cứu sinh trong các dự án nghiên cứu của chính trường mà các bạn theo học. Đối với cá nhân mình, những kinh nghiệm đi làm thực tế cũng như các chứng chỉ về việc hoàn thành những mảng kĩ năng chuyên biệt mà công ty nào đó cần sẽ mang đến một ấn tượng còn tốt hơn nhiều so với việc tốt nghiệp một trường đại học đứng hàng đầu trên Hochschulranking. Chúc các bạn sinh viên tương lai thành công trong việc lựa chọn trường đại học cho mình nhé! Nguồn tham khảo: https://www.connecticum.de/karrierefragen/hochschulwahl-frage-1220885336 Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Danh từ, trong bất cứ thứ tiếng nào, đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra sự hiện diện cụ thể của sự vật, sự việc. Thiếu đi danh từ, mọi cuộc hội thoại đều không thể nào được hiểu trọn vẹn nữa. Do vậy, khi học một ngoại ngữ mới, ưu tiên hàng đầu của người học đối với việc học từ mới là học danh từ. Để học từ mới cho hiệu quả, trong bài viết này, chúng ta cùng xem xét 3 nhóm danh từ khác nhau được phân chia theo ý nghĩa của chúng trong tiếng Đức: 1. Gattungsnamen Đây là nhóm đầu tiên và cũng là nhóm với số lượng từ nhiều nhất. Nhóm bao gồm những danh từ biểu hiện khái niệm cụ thể trong thực tế, ví dụ như Tisch (cái bàn), Flasche (cái chai), Auto (xe hơi) hay Land (đất nước). Chúng được gọi là Gattungsnamen vì chúng không chỉ đại diện cho một thứ duy nhất, mà là toàn bộ những khái niệm đếm được khác thuộc về nhóm của chúng. Dù có khác nhau về kiểu dáng, màu sắc, chức năng, kích thước mức nào thì chúng ta không thể chối cãi một sự thật là mọi cái bàn trên thế giới đều phải là cái bàn trước đã, và cái chai cũng vậy. Cách tốt nhất để học từ mới thuộc nhóm này là phân chia chúng thành các nhóm khác nhau. Ở đây, ta lại có 3 cách phân nhóm khác nhau: Phân nhóm theo mức độ cụ thể tăng dần: có nghĩa là chúng ta sẽ có các Oberbegriffe (khái niệm tổng quát), trong đó bao gồm các Unterbegriffe (khái niệm cụ thể). Ví dụ: Phân nhóm theo việc kể tên các thành phần của một tổ hợp tổng thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có 1 khái niệm được cấu thành từ các khái niệm nhỏ hơn. Ví dụ: Phân nhóm theo một văn cảnh cụ thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có một loạt các khái niệm có liên quan đến văn cảnh mà ta nhắc đến. Ví dụ: Nếu suy nghĩ đến quá trình tiếp thu tiếng Việt, rõ ràng chúng ta không hề ghi nhớ từ mới theo thứ tự bảng chữ cái, mà là theo tư duy phân nhóm như ở trên. Não bộ chúng ta chứa rất nhiều nơ-ron thần kinh và chúng phân bố theo mô hình mạng lưới. Điều đó có nghĩa là, chúng sẽ hoạt động càng tốt khi chúng ta càng tạo ra được nhiều sợi dây liên kết giữa các khái niệm với nhau. Bằng tư duy phân nhóm, việc học từ mới, đặc biệt là danh từ, sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều. Một chú ý nhỏ cho các danh từ thuộc nhóm Gattungsnamen: ở số nhiều, các khái niệm thuộc nhóm này sẽ không cần đến Artikel (quán từ xác định) nếu khái niệm được nói đến là khái niệm chung nhất chứ không phải bất cứ một thành phần cụ thể nào. Ví dụ như câu: “Katzen sind sehr ortsgebunden und ziehen es vor, in ihrer gewohnten Umgebung zu bleiben” (Loài mèo gắn bó rất chặt với địa điểm và thường có xu hướng ưu tiên việc ở trong một không gian mà chúng quen thuộc) rõ ràng nói đến toàn bộ loài mèo chứ không hề nói đến cá thể mèo nào cả. 2. Stoffsubstantive Nhóm danh từ thứ hai là một nhóm nhỏ hơn rất nhiều. Nó bao gồm những danh từ chỉ vật chất cơ bản hay nguyên liệu, ví dụ như Glas (kính), Wasser (nước), Gold (vàng) hay Schnee (tuyết). Điều gây khó khăn cho người học khi sử dụng những danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng thường được sử dụng mà không cần quan tâm đến Genus (cách) hay trong nhiều trường hợp là cả Artikel (quán từ xác định). Ví dụ như câu “etwas ist aus Holz” (cái gì đó làm từ gỗ) không có cả 2 thứ trên, ngay cả khi “aus” là một giới từ thông thường đòi hỏi Dativ (cách 3). Dưới đây là những đặc điểm của các danh từ thuộc nhóm Stoffsubstantive này: Ở số ít, chúng không cần quán từ xác định: Aluminium ist leichter als Stahl (Nhôm nhẹ hơn thép). Ở số ít, chúng không cần đi cùng với cách: Der Palast des Königs ist aus Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính). Ở số ít, chúng đi cùng với cách khi có sự xuất hiện của tính từ: Der Palast des Königs ist aus kugelsicherem Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính chống đạn). Khái niệm số nhiều của danh từ thuộc nhóm này sẽ chỉ được sử dụng khi các khái niệm cụ thể hơn cùng xuất hiện trong văn cảnh đó: Zum Kochen sollte man am besten pflanzliche Öle wie Olivenöl oder Sonnenblumenöl verwenden (Khi nấu ăn, tốt nhất ta nên sử dụng những loại dầu làm từ thực vật như dầu ô-liu hay dầu hướng dương). Đối với một số danh từ đặc biệt, chúng ta không có khái niệm số nhiều thông thường cho chúng, mà chỉ có khái niệm số nhiều thông qua việc thay đổi bản chất từ, ví dụ như Milch (sữa): Im Supermarkt kann man verschiedene Milchsorten kaufen (Ở siêu thị ta có thể mua rất nhiều chủng loại sữa khác nhau). Thỉnh thoảng thì Gattungsnamen cũng được dùng như là Stoffsubstantive và được dùng tương tự như vậy để nhấn mạnh một tính chất đặc biệt nào đó. Ví dụ như vor Freude (trong niềm vui), aus Angst (do sợ hãi), Liebe ist nur ein Wort (tình yêu chỉ là một từ mà thôi), Erkältung haben (bị cảm lạnh),… 3. Eigennamen Đây là nhóm danh từ cuối cùng và từ mới thuộc nhóm này thường không gây ra quá nhiều khó khăn cho người học. Đúng như tên gọi, các danh từ nhóm này bao gồm tên riêng, ví dụ như họ và tên của một người cụ thể hay tên một công ty, một tập đoàn, một trường đại học. Vì thể hiện các khái niệm riêng biệt như vậy nên các danh từ của nhóm này đương nhiên cũng không cần Artikel (quán từ xác định) nữa. Vậy nên, ví dụ nếu ai đó nói đến khái niệm “ein VW” thì ta cần hiểu, người đó đang đề cập đến khái niệm rút gọn của “một chiếc xe VW” chứ không phải là “tập đoàn VW”. Tuy vậy, trong một vài trường hợp, ta cũng có ngoại lệ với việc Eigennamen thì không cần Artikel. Ví dụ, khi một người nhắc về một người khác với tên riêng cùng quán từ xác định như sau “Heute sehe ich den Kobe nicht” (Hôm nay tôi không nhìn thấy thằng Kobe), họ muốn nhấn mạnh rằng người mà họ nhắc tới là một người quen, hoặc là tạo ra tín hiệu rằng, những người đang nghe cũng biết đến người có tên mà họ nhắc đến, phân biệt người được nhắc đến với những người có cùng tên gọi khác. Ngược lại, việc người nói sử dụng quán từ không xác định như là “Da ist ein Kobe am Telefon!” (có một ông nào đó tên Kobe đang ở bên kia đầu dây nè!) thể hiện cho người nghe rằng họ không biết ông tên Kobe này là ai. Ngoài ra, còn một trường hợp ngoại lệ khác với các danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng ta có thể dùng tên riêng thêm đuôi “s” để tạo ra tính chất sở hữu tương tự như khi sử dụng Genitiv (cách 2), ví dụ như “Kobes Haus” (nhà của Kobe). Tuy vậy, cách nói đơn giản với giới từ “von” (das Haus von Kobe) vẫn được dùng nhiều hơn và cũng dễ hiểu hơn. Tác giả: Kobe Minh họa: Diệu Bích
Khi nói về khả năng sử dụng ngoại ngữ một cách thông thạo, ta đang nói tới khả năng chọn đúng ngữ liệu để sử dụng trong từng trường hợp cụ thể. Để đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất thì những ngữ liệu này không những phải đúng, mà còn cần phù hợp, hay nói cách khác là được phép sử dụng. Khi giao tiếp với một người bản ngữ, ngoài nội dung cuộc nói chuyện, họ đương nhiên cũng sẽ cực kì để ý tới việc nội dung đó được thể hiện như thế nào (những từ, cụm từ gì đã được sử dụng, những biểu hiện cơ thể của người nói trông ra sao,…). Lẽ dĩ nhiên, việc giao tiếp bằng một ngoại ngữ không đơn giản là việc kết hợp một cách “freestyle” các từ mà chúng ta đã biết với nhau, điểm thêm một chút ngữ pháp và cách phát âm đúng (giống như mô hình Wohnwagen mà mình đã trình bày ở một bài viết khác). Để giao tiếp “đúng”, chúng ta cần luôn luôn chọn đúng ngữ liệu! Như đã trình bày trong nhiều bài viết khác, trong nhiều trường hợp, sẽ là rất khó, thậm chí không thể nào, nếu bạn muốn dịch nghĩa một cách hoàn chỉnh một khái niệm từ ngôn ngữ mẹ đẻ sang ngôn ngữ thứ hai. Mỗi ngôn ngữ lại có những quy tắc riêng của chúng, ví dụ như ở việc sắp xếp các từ trong câu. Ngoài ra, điều chúng ta cũng khá hay gặp là việc một tổ hợp từ nhất định đi cạnh nhau để phục vụ cho việc đưa ra một thông điệp nào đó là rất đặc thù. Khi thiếu đi sự tương đồng giữa việc chuyển đổi giữa hai ngôn ngữ, thông điệp mà ta muốn truyền tải sẽ bị bóp méo, thậm chí trở nên hoàn toàn sai. Một ví dụ cho việc này đó chính là việc cụm từ dùng để hỏi thăm sức khỏe trong tiếng Anh “How are you?” nếu chuyển đổi một cách máy móc sang tiếng Đức sẽ trở thành “Wie bist du?” và đương nhiên là không còn mang ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Ngoài ví dụ trên, sau đây, chúng ta cùng tham khảo một vài lỗi sai khi sử dụng tiếng Đức bằng cách chuyển đổi máy móc giữa các ngôn ngữ khác nhau. Nach zwei Tagen ist das Essen leider kaputt. Ich habe eine Entscheidung gemacht. Nach dem Essen wasche ich mir die Zähne. Ở ví dụ đầu tiên, nếu xuất phát từ khái niệm tiếng Việt là “thức ăn bị hỏng”, chúng ta sẽ dễ dàng mắc lỗi như trên. Thay vào đó, “Essen” thì chỉ có thể trở nên “schlecht” mà thôi. Tương tự, nếu xuất phát từ khái niệm tiếng Anh “to make a decision”, ta sẽ tiếp tục mắc lỗi, bởi vì trong tiếng Đức, ta chỉ có “Entscheidung treffen”. Cuối cùng, lỗi sai ở ví dụ thứ ba thường sẽ hay gặp ở những người nói tiếng Tây Ban Nha với khái niệm “lavarse los dientes”, trong khi đó tiếng Đức chỉ có khái niệm “Zähne putzen” thôi. Thông qua những ví dụ này, mình không hề muốn nói rằng việc mắc lỗi sai khi sử dụng một ngoại ngữ là việc gì đó rất đáng buồn cười. Trên thực tế, việc mắc lỗi sai là một phần tất yếu của mọi quá trình học tập và chỉ có cải thiện từ các lỗi sai, chúng ta mới có thể tiến bộ và hoàn thiện hơn. Đương nhiên, nhiều người học ngoại ngữ không chỉ muốn dừng lại ở mức độ khiến người khác hiểu, họ thực sự muốn sử dụng ngôn ngữ đó ở trình độ cao nhất có thể. Muốn như vậy, họ cần phải học từ các lỗi sai của mình và cố gắng học từ và các khái niệm mới theo cụm, thay vì nghĩ ra những cụm từ dựa trên hiểu biết cá nhân của mình, bởi vì việc lựa chọn cách diễn đạt chuẩn xác cho một tình huống cụ thể sẽ luôn là chỉ dấu rõ ràng cho khả năng sử dụng ngoại ngữ đó ở trình độ cao. Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Trong bối cảnh virus Corona với các biến chủng khác nhau vẫn đang tiếp tục hoành hành tại Việt Nam, việc các cơ sở giáo dục phải tạm thời đóng cửa và cố gắng duy trì hoạt động bằng hình thức dạy online đang ngày càng phổ biến. Với tư cách là một người đã dạy online một thời gian khá dài, mình muốn mang đến một vài góc nhìn cá nhân như sau: Đầu tiên, mình muốn nhấn mạnh một điều: mình dạy online không phải vì dịch. Chuyện này quá dễ hiểu, mình ở Đức và hầu hết các bạn học viên đều còn ở Việt Nam, không dạy online chắc mình bay về Việt Nam mỗi cuối tuần quá 😀 Tuy dạy online đại bộ phận thời gian, nhưng thật ra mình đã bắt đầu sự nghiệp dạy tiếng Đức ở một lớp học offline nhỏ tại Hà Nội. Cảm giác đầu tiên khi phải tập cách truyền đạt kiến thức thông qua màn hình máy tính rõ ràng là không được thoải mái. Nó cũng giống như khi yêu xa vậy thôi. Dù công nghệ có kéo gần khoảng cách của chúng ta mức nào thì nó cũng không thể thay thế được cảm giác mặt đối mặt hay những hoạt động cần đến sự tương tác trực tiếp khác. Nhưng cũng lại tương tự khi yêu xa, dù cảm giác có thể không được chân thực bằng, nhưng dĩ nhiên là chả có đôi nào vì thế mà ngừng gọi điện thoại cho nhau cả. Trừ khi mình không còn thích dạy học nữa. Điều này thì chắc là không xảy ra rồi, và thế là mình tiếp tục dạy online. Rồi thì mình kéo thêm người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba tham gia dạy cùng. Và cứ thế, chúng mình đã từ lúc nào trở thành một đội ngũ dạy tiếng Đức online. Dạy bằng hình thức nào cũng vậy, sẽ luôn có cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Thiếu đi tương tác trực tiếp và những hoạt động kể trên, nhưng nhờ có các phần mềm hỗ trợ mà một đứa không biết vẽ và chữ cũng không lấy gì làm đẹp như mình bỗng dưng cảm thấy tự tin hẳn, cảm giác cứ như là dùng bảng thông minh vậy. Hơn thế nữa, dạy online giúp mình tiếp cận với những học viên từ khắp nơi trên thế giới, những người mà nếu mình mở lớp học tại cố định một địa điểm thì có lẽ sẽ rất khó để gặp được. Mình đánh giá rất cao điều này, vì với mình, dạy học không chỉ là một nghề để kiếm tiền, nó còn giúp mình khắc phục một vấn đề cố hữu mà mình gặp phải từ bé: sống khép kín và ngại tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau bóng rổ, dạy học chính là cây cầu thứ hai đưa mình đến với rất nhiều người mà trước đây mình không nghĩ mình có ngày sẽ quen và kết bạn với họ. Tuy ngoài dự tính nhưng giờ nó đã trở thành một lý do quan trọng khiến mình muốn tiếp tục theo đuổi việc dạy học, dù ngay thời điểm này thì việc làm song song khiến mình cảm thấy hơi quá sức. Tuy nhiên, dù là như vậy, khi thật sự có thể dành toàn bộ thời gian cho dạy học, mình chắc chắn sẽ ưu tiên việc dạy trực tiếp hơn. Thì rõ ràng mà, ai lại thích yêu đương qua màn hình máy tính bao giờ 😀 Vậy nhưng, mình không hề và cũng không có ý định phán xét việc yêu xa hay yêu gần của các cặp đôi. Ngày trước, hồi mình và vợ mình còn yêu xa, nhiều người cũng hay hỏi han việc yêu xa kiểu gì vậy. Thậm chí, không ít người còn cho rằng hai đứa này kiểu gì cũng chia tay. Đấy thế nhưng mà bọn mình có chia tay đâu, bọn mình còn đang đi du lịch với nhau trực tiếp đây này 😀 Dạy học cũng vậy. Dù là online hay offline, điểm mấu chốt vẫn là con người. Điều kiện cần là người dạy đủ kiến thức, đủ tâm huyết và đủ thời gian để có thể mang đến cho người học những gì tốt nhất. Điều kiện đủ là người học xác định rõ mục tiêu, hết lòng theo đuổi mục tiêu đó và hợp tác hết mình với người dạy. Có được điều đó, thì hình thức dạy học là gì, liệu có còn quá quan trọng? Lý do mình viết bài này không phải để cổ súy cho hình thức học online, dù chính bọn mình đang hoạt động với hình thức này. Mình hiểu tất cả những điểm yếu của hình thức này và cũng muốn trực tiếp đứng lớp nếu cơ hội đến. Thế nhưng, mình tôn trọng tất cả những người dạy học, dù dưới hình thức nào. Không bàn đến hay dở và đúng sai, chỉ riêng việc họ không từ bỏ khi khó khăn ập tới đã là điều làm mình cảm thấy khâm phục. Ngoài ra, như đã nói ở trên, điểm mấu chốt không phải hình thức dạy, mà với mình là con người, cả người dạy lẫn người học. Cũng giống như khi chúng ta đổ lỗi cho công nghệ đã khiến con em chúng ta trở nên lười vận động hay lười giao tiếp như thế nào, vấn đề vốn dĩ không nằm ở công nghệ, thứ sẽ luôn thay đổi theo thời gian và tạo ra những thói quen mới. Vấn đề về cơ bản, luôn nằm ở phía con người, điều khá khó khăn để nhận ra và cũng càng khó hơn để chấp nhận. Vì thế, các bạn thân mến, hãy bắt đầu học khi các bạn muốn học, sẵn sàng hết mình với việc học và khi các bạn cảm thấy đã tìm được một người dạy đủ khiến bạn tin tưởng. Nếu tất cả những điều đó đã có đủ và chỉ thị 16 vẫn còn hiệu lực, vậy thì hãy học online đi nhé! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Trong ngôn ngữ học, việc hình thành một ý tưởng câu dựa trên 2 yếu tố: những thứ mà ta đã biết (Thema) và những thông tin, ý kiến mới mà ta thêm vào (Rhema). “Thema” của một câu bao gồm những thông tin mà tất cả chúng ta đều biết, đã được nhắc đến phía trước hoặc được làm rõ thông qua văn cảnh khi viết. Do vậy, chúng có vai trò định vị cho câu, để làm rõ và khiến người đọc hiểu rằng thông tin chính xuất hiện trong điều kiện, hoàn cảnh như thế nào. “Rhema”, ngược lại, chính là linh hồn của câu. Điều này thật ra khá dễ hiểu vì chúng ta không thể viết một câu mà không mang lại bất kì thông tin nào cho người đọc cả. Chúng ta cùng tham khảo một vài ví dụ sau đây: In Hanoi (Thema) ist es seit Tagen sehr warm (Rhema). Ich (Thema) habe die Prüfung sehr gut bestanden (Rhema). Es war einmal ein König (Rhema). Er (Thema) hatte drei Töchter (Rhema). Để trình bày một luận điểm hay một vấn đề, chúng ta có một vài cấu trúc khác nhau sử dụng Thema & Rhema (hay còn gọi là Thema-Rhema-Struktur hay Informationsstruktur). 1. Lineare Thema-Rhema-Struktur Cấu trúc này là cấu trúc cơ bản nhất và thường được dùng trong các cuộc hội thoại thân mật. Ở đây, một Rhema sẽ chịu trách nhiệm mở đầu vấn đề bằng câu đầu tiên. Sau đó Rhema này sẽ đóng vai trò là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Đây là cấu trúc hay gặp trong các cuộc hội thoại “Smalltalk” hay trong các văn bản không đặt nặng tính hình thức. Peter ist ziemlich erkältet (Rhema). Seine Erkältung (Thema 1) ist aber nicht bedenklich (Rhema 1) Marie ist die Freundin von Renate (Rhema). Renate (Thema 1) ist die Kollegin meiner Mutter (Rhema 1). Meine Mutter (Thema 2) heißt auch Renate (Rhema 2). Dabei (Thema 3) ist Renate kein häufiger Name (Rhema 3),… 2. Durchlaufendes Thema Cấu trúc này đưa ra nhiều Rhema khác nhau cho cùng một Thema. Nói cách khác, Thema của câu đầu tiên cũng chính là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Do đó, nó phù hợp khi bạn muốn miêu tả về một sự việc hay vấn đề nào đó. Một công cụ hữu ích khi sử dụng cấu trúc này để viết chính là việc sử dụng MindMap. Peter (Thema) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Er (Thema) kann trotzdem zur Arbeit gehen (Rhema 2). Kupfer (Thema) ist ein chemisches Element mit dem Elementsymbol “Cu” und der Ordnungszahl 29 (Rhema 1). Es (Thema) ist ein Übergangsmetall (Rhema 2), im Periodensystem steht es (Thema) in der 4. Periode und der 1. Nebengruppe oder Kupfergruppe (Rhema 3). Một trường hợp đặc biệt có thể kể tới là “Progression mit abgeleiteten Themen”. Ở đây, các Rhema khác nhau của 1 Thema sẽ được sắp xếp và đánh dấu rõ ràng để tiện cho việc theo dõi. Ví dụ cụ thể là phần mục lục của tất cả các cuốn sách. 3. Gespaltenes Rhema Ở hình thức này, trái ngược với “durchlaufendes Thema”, một Rhema sẽ được chia thành nhiều phần nhỏ và được xem xét trong các Thema khác nhau. Thông qua việc phân tích trong các Thema đó, các phần nhỏ của Rhema sẽ được xem xét một cách kĩ càng và đa chiều, đồng thời tạo nên một Rhema tổng hợp có sức thuyết phục hơn. Cấu trúc này được sử dụng trong các cuộc tranh luận hay phân tích mặt lợi – mặt hại của một vấn đề. Die Sprachwissenschaftliche Forschung hat sich bei blinden Kindern vor allem mit den Auswirkungen der Behinderung auf Themenwahl und nonverbales Verhalten konzentriert (Rhema). Die wenigen Untersuchungen lassen vermuten, dass in Gesprächen mit blinden Kindern Themen (Thema 1) überwiegen, die sich eher auf das Kind, als auf dessen Umgebung beziehen. In vielen Fällen wird das nonverbale Verhalten (Thema 2) durch Blindismen geprägt. 4. Thematischer Sprung Ở hình thức này, Rhema và Thema của các câu liên tiếp sẽ hoàn toàn khác nhau do những thông tin được đánh giá là “ai cũng hiểu” sẽ được bỏ qua. Do vậy, hình thức này sẽ chỉ thích hợp cho việc trao đổi thông tin giữa những người có cùng chuyên môn về một lĩnh vực nào đó. Peter (Thema 1) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Die Arbeitsstelle (Thema 2) ist schlecht beheizt (Rhema 2). Tác giả: Kobe
Đối với tất cả những bạn đã sang và sống một thời gian ở nước ngoài, sau đó đã quen và hiểu được văn hóa, cuộc sống, con người bản địa, chắc hẳn các bạn đều cảm thấy rất tuyệt. Bạn có những người bạn bản địa và tham gia vào các hoạt động thường nhật một cách tự tin bằng tiếng bản địa, như mua sắm, đặt đồ ăn hay làm việc. Bạn không hề còn cảm thấy bạn là một “người ngoại đạo” như những tháng đầu tiên ở đất nước mới nữa. Thật sự là bạn sẽ cảm thấy cực kì ổn cho đến khi một người bạn đến và hỏi bạn rằng: “Cậu sử dụng thứ tiếng này trôi chảy chứ?”. Chắc hẳn bạn sẽ khựng lại một giây và tự hỏi bản thân rằng: “Mình làm được điều đó chưa nhỉ?”. Rất khó để có một thước đo tiêu chuẩn định nghĩa rằng, một người có thực sự trôi chảy với một thứ tiếng hay không. Nhiều người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn đã thuộc nằm lòng tất cả các từ có trong từ điển, có thể diễn đạt 100% tất cả những gì bản thân muốn mà không mắc bất kì lỗi sai nào dù là nhỏ nhất hay có thể nói mà không cần tốn chút thời gian nào suy nghĩ để tìm ra từ cần thiết. Cũng không ít người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn vượt qua những kì thi chuẩn hóa với số điểm cao chót vót. Nhưng nếu đó là thước đo của việc sử dụng trôi chảy một ngoại ngữ, bạn có chắc là bạn có thể làm được điều đó với tiếng mẹ đẻ của bạn hay không? Nói ví dụ, rõ ràng chúng ta cực kì trôi chảy tiếng Việt, nhưng chúng ta có thể nói mà không cần suy nghĩ chọn từ hay nói mà không mắc bất kì lỗi nhỏ nào hay không? Chúng ta trôi chảy tiếng Việt và chúng ta khẳng định bản thân sẽ vượt qua kì thi C2 tiếng Việt một cách dễ dàng chứ? Có lẽ là chưa chắc… Thay vào đó, chúng ta thường cho rằng, việc trôi chảy một ngoại ngữ gắn liền với tốc độ nói, khả năng diễn đạt đơn giản dễ hiểu và đương nhiên là liền mạch nữa. Quan trọng không kém là ta có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau và với nhiều đối tượng khác nhau. Thế tóm lại, thật ra ta nên dựa vào điều gì để đánh giá về mức độ trôi chảy khi sử dụng một ngôn ngữ? Sau đây, mình sẽ giới thiệu tới các bạn 7 dấu hiệu cho thấy bạn đang sử dụng ngoại ngữ một cách trôi chảy. 1. Người bản xứ không còn thay đổi cách họ nói chuyện với bạn Cũng tương tự như khi chúng ta là người Việt và nói chuyện với một người bạn châu Âu đang học tiếng Việt. Rõ ràng, chúng ta nhận ra rất nhanh người đối diện có thật sự lưu loát tiếng Việt hay không. Nếu không, xu hướng của chúng ta sẽ là nói chậm hẳn lại để người đối diện có thể hiểu được và theo kịp nội dung cuộc nói chuyện. Điều tương tự sẽ xảy ra khi chúng ta sang một nước khác. Bạn đơn giản là không thể che mắt một người bạn xứ về trình độ tiếng của mình nếu bạn và họ nói chuyện tối thiểu là 5 phút. Vì vậy, nếu cuộc nói chuyện kéo dài và bạn nhận ra, người bản xứ không hề nói chậm lại, đó là chỉ dấu đầu tiên cho thấy: bạn đang sử dụng ngôn ngữ của họ trôi chảy rồi đấy! 2. Bạn có thể nghe lỏm được các cuộc hội thoại Một dấu hiệu khác là khi bạn đi đến quán Cafe hay ngồi ăn trong một nhà hàng, lắng nghe những người xung quanh nói chuyện với nhau và cảm thấy đó không còn chỉ là tiếng ồn như động cơ máy bay nữa. Bạn thật sự có thể hiểu được họ đang nói về chủ đề gì cũng như cảm xúc của họ ra sao khi nói về chủ đề đó. Đây là một bước tiến cực kì lớn, bởi vì tốc độ nói chuyện của 2 người bản xứ với nhau thường rất nhanh và họ cũng sử dụng nhiều những từ ngữ không chính thống hơn. Ngoài ra, bạn có thể hiểu người khác nói gì mà không cần nhìn vào mắt hay chuyển động cơ thể của họ để phán đoán ý tứ. Đây là một trong những chỉ dấu mình cho là đáng giá nhất. 3. Bạn khám phá ra một thế giới mới của sự hài hước Chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng: ngay cả việc trở nên hài hước bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình cũng là một điều cực kì khó khăn. Ta cần phải biết rất nhiều từ lóng, hiểu rất sâu về ngôn ngữ, về văn hóa, phong tục tập quán hay nắm được các trào lưu thịnh hành,… Và bạn hãy thử tưởng tượng, bạn làm được điều đó với một ngôn ngữ khác! Bạn xem Standup-Comedy và không cần bạn bè giải thích lại. Bạn có thể đi chơi cùng bạn bè người bản xứ và có thể nói gì đó khiến tất cả cùng cười. Nếu làm được điều này, bạn hoàn toàn có thể tự hào về bản thân cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ của mình. 4. Bạn không còn sợ đi khám nữa Khi bạn còn chưa tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình, chắc hẳn suy nghĩ về việc đi gặp bác sĩ là một trong những điều khiến bạn sợ nhất. Không hẳn là bạn sợ đau, mà là bạn sợ bạn không thể diễn tả cho bác sĩ hiểu bạn đang gặp vấn đề gì. Hoặc bạn sợ bác sĩ giải thích cho bạn vài điều và bạn không hiểu nổi. Hoặc là vì bất đồng ngôn ngữ mà bác sĩ kê nhầm thuốc cho bạn. Nếu đến một ngày, bạn không còn sợ điều này nữa, đó cũng là một dấu hiệu cho thấy bạn đang dần trở nên trôi chảy hơn với ngoại ngữ. 5. Bạn biết cách sử dụng “bad words” Những người bản xứ thường cảm thấy khá hào hứng mỗi khi họ có cơ hội dạy cho các bạn nước ngoài về những từ bậy bạ ở nước mình (thừa nhận đi, các bạn cũng thấy thế với tiếng Việt đúng không?). Ban đầu, dĩ nhiên bạn cảm thấy khá lạ lẫm. Nhưng dần dần, bạn nhận ra những văn cảnh cụ thể để sử dụng những từ này mà không gây phản cảm, mà trái lại, còn làm người nghe cảm thấy hứng thú với câu chuyện của bạn hơn. Nếu làm được điều này, ngay cả khi là một người không bao giờ chửi bới, bạn vẫn có thể thể hiện rằng, bạn đang trên con đường trở nên trôi chảy với ngoại ngữ mà bạn sử dụng. 6. Bạn nắm được nội dung mà không quan tâm đến ngôn ngữ Mình nghĩ điều này chắc chắn là không thể khi các bạn mới bắt đầu với một ngoại ngữ. Nhưng nếu bây giờ bạn đang ngồi đâu đó, đọc một bài báo hay nghe một bản tin và hiểu được nội dung của nó. Sau đó, bạn suy nghĩ lại và chợt nhận ra, bạn không biết rằng nội dung bạn vừa gặp được truyền tải bằng thứ tiếng nào. Đó là một khoảnh khắc tuyệt vời và điều đó chứng minh rằng, bạn bắt đầu có khả năng chuyển đổi linh hoạt giữa tiếng mẹ đẻ và một ngôn ngữ khác, điều mà sẽ không chỉ giúp bạn cho thứ tiếng đó, mà còn cho cả những ngôn ngữ mới mà bạn sẽ học sau này. 7. Bạn biết mình vừa mắc lỗi gì Tất cả những người, dù đã sử dụng thành thạo một ngôn ngữ cỡ nào, họ vẫn sẽ mắc lỗi. Điểm khác biệt so với những người mới học là ở chỗ, họ biết rõ họ mắc lỗi gì và như thế nào. Và nếu là một người trôi chảy với thứ tiếng đó, bạn sẽ ngày càng sửa lỗi của bản thân thường xuyên hơn và thậm chí là ngay lập tức. Vì thế, hãy tự hào nếu bạn có thể làm được điều này, vì đây là kĩ năng cách rất rất xa một người mới học ngôn ngữ hay thậm chí đang ở trình độ trung cấp của ngôn ngữ đó. Tác giả: Kobe
Những cơ hội đào tạo mở rộng kỹ năng tại Đức là vô cùng đa dạng. Những người quan tâm có rất nhiều sự lựa chọn, không chỉ ở chủ đề, mà còn ở những loại hình đào tạo khác nhau. Hiện nay, điều quan trọng hơn hết là những thông tin chi tiết để không gì có thể ngăn cản bạn khỏi những hoạt động cá nhân nhằm nâng cao kỹ năng. Ở bài viết sau đây, chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn những hình thức đào tạo mở rộng chuyên môn quan trọng nhất: Tự học Hình thức học tập này có những ưu và nhược điểm, vì người học sẽ tự quyết định thời gian, mức độ tập trung hay phương tiện nào sẽ giúp người học nắm được nội dung và đạt được những mục tiêu học tập mong muốn. Người học có thể học với một nhóm người, có thể tự đưa ra những tiêu chí để đánh giá hiệu suất công việc, hay có thể tự quyết định học với công cụ nào. Những công cụ đó có thể bao gồm các tài liệu giảng dạy thông thường cũng như học trực tuyến hoặc một sự giúp đỡ chuyên nghiệp, ví dụ như từ một giáo viên dạy riêng. Sự linh hoạt chính là yếu tố khiến việc tự học trở nên hấp dẫn hơn. Mặt khác, việc đó cũng ẩn chứa nguy cơ không theo đuổi mục tiêu một cách kiên định nếu không có áp lực từ bên thứ 3. Việc luôn luôn phải tự động viên bản thân rằng tất cả mục tiêu sẽ hoàn thành quả thực khó khăn, và việc này trở nên dễ dàng hơn khi làm việc trong cùng một nhóm, trong một khóa học, hay với nhiều người khác hơn là làm “đơn thương độc mã”. Những người thực sự lưu ý đến khía cạnh này và có thể đảm bảo luôn có khả năng tự động viên bản thân có thể thực hành việc tự học. Nếu bạn không chắc chắn mình có thể làm thế, hãy thử các hình thức học sau đây. Các khóa học/ hội thảo/ thuyết trình Có lẽ hình thức đào tạo mở rộng kỹ năng phổ biến nhất là phương pháp học truyền thống thông qua một buổi thuyết trình, hội thảo hay một khóa học. Việc rất nhiều cơ sở đào tạo tạo điều kiện cho những hình thức trên không nhất thiết sẽ khiến sự lựa chọn của chúng ta trở nên dễ dàng hơn. Tuy vậy, trên một phương diện khác, nó lại mở ra rất nhiều con đường giúp bạn đạt được mục tiêu. Bởi vậy những ai sẵn sàng học hỏi có thể tham gia các khóa học giáo dục dành cho người lớn, tham gia các khóa học từ các cơ sở đào tạo khác nhau, tham gia các hội thảo cuối tuần, nghe thuyết trình hoặc học tại một trường đại học. Hình thức học truyền thống là phương pháp tốt nhất đối với nhiều người để học một thứ gì đó, vì bạn học theo nhóm và có thể trao đổi, so sánh với những người cùng tham gia. E-Learning Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, các nhà cung cấp hình thức đào tạo phát triển chuyên môn đã liên tục mở ra rất nhiều lĩnh vực kinh doanh mới. Học trực tuyến (E-Learning) là một lĩnh vực tương đối non trẻ. E-learning có nghĩa là “việc học tập được hỗ trợ bởi thiết bị điện tử” (nghĩa đen: “học trực tuyến”). Người học được truyền tải nội dung bài giảng thông qua các phương tiện điện tử và/hoặc kỹ thuật số cho việc trình chiếu hoặc sắp xếp tài liệu hay cho việc hỗ trợ tương tác. E-learning có thể được sử dụng để hỗ trợ các phương pháp giảng dạy khác hoặc nó có thể được sử dụng một mình. Hình thức này rất được yêu thích bởi các bạn trẻ, vì nhiều người trong số họ sử dụng máy tính nhiều giờ mỗi ngày. Truyền thông đa phương tiện, tương tác và học tập với các phương tiện truyền thông hiện đại đang trên đà phát triển và chắc chắn sẽ đóng một vai trò lớn trong tương lai. Học từ xa Học từ xa được định nghĩa là ‘’Việc truyền đạt những kiến thức và kĩ năng, trong đó người dạy và người học hoàn toàn hoặc chủ yếu cách xa nhau về mặt không gian và giáo viên hay người giám sát sẽ theo dõi mức độ hiệu quả của việc học’’. Chủ yếu tách biệt về mặt không gian có nghĩa là chắc chắn sẽ có những nhà cung cấp dịch vụ giảng dạy từ xa nhưng vẫn cung cấp cả những khóa học trực tiếp. Thuận lợi cho người học chính là việc tự quản lý thời gian rảnh của bản thân. Các cơ sở giảng dạy từ xa cung cấp các tài liệu như bản in sách giáo khoa, tài liệu âm thanh hoặc video, tài liệu trên nền tảng máy tính hoặc web và các bài tập được gửi qua đường bưu điện. Người quan tâm có thể học nghề hay học văn hóa tại các trường học từ xa và cũng có thể đăng kí tham gia nhiều hoạt động cải thiện kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng chuyên sâu. Training on/near/off the job “Training on the job” có nghĩa là nhân viên tham gia các khóa đào tạo phát triển nghiệp vụ, chuyên môn tại nơi mà họ làm việc. Hình thức này rất linh hoạt về mặt thời gian và có thuận lợi là nhân viên được đào tạo ở nơi quen thuộc với họ. Khi “Training near the job”, các hoạt động đào tạo sẽ diễn ra tại công ty, nhưng không phải trực tiếp tại nơi làm việc. Ví dụ khóa đào tạo các kĩ năng như hùng biện sẽ được tổ chức tại phòng hội thảo của các doanh nghiệp lớn. Với “Training off the job”, nhân viên sẽ được học bên ngoài công ty, ví dụ như tại các phòng của những người cung cấp khóa học đào tạo mở rộng kĩ năng. Các chuyến đi mở rộng chuyên môn và học tiếng ở nước ngoài Các hình thức đào tạo kĩ năng ở nước ngoài rất được yêu thích. Thật vậy, người học có thể vừa học được những thứ hữu ích mà vừa có cảm giác dễ chịu và được lợi từ những ấn tượng về một đất nước hoàn toàn xa lạ ngoài việc đào tạo chuyên môn nghề nghiệp. Chuyển dịch: Huyền Yến Minh họa: Huyền Kiu Bài viết gốc với tiêu đề “Formen der Weiterbildung” được đăng trên https://www.weiterbildung-ratgeber.de/formen-der-weiterbildung/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Das Angebot auf dem deutschen Weiterbildungsmarkt ist enorm vielfältig. Nicht nur thematisch, sondern auch, was die unterschiedlichen Arten der Fortbildung betrifft, haben Interessenten eine enorm große Auswahl. Umso wichtiger sind jetzt eingehende Informationen, damit Sie auch nichts mehr von Ihrer individuellen Weiterbildungsmaßnahme abhält. Auf diesen Seiten stellen wir Ihnen die wichtigsten Formen von Weiterbildungsmaßnahmen vor: Selbst organisiertes Lernen Diese Form der Weiterbildung hat Vor- und Nachteile, da der Lernende selbst bestimmt, wann, wie intensiv und mit welchen Mitteln er seine Inhalte und Lernziele erreichen möchte. Er kann allein oder mit anderen gemeinsam lernen, er kann sich selbst Kriterien der Leistungsbeurteilung erarbeiten und er kann entscheiden, mit welchen Mitteln er lernt. Dazu können gängige Unterrichtsmaterialien ebenso gehören wie das E-Learning oder auch das Einschalten professioneller Hilfe, zum Beispiel durch einen privaten Lehrer. Es ist die Flexibilität, die das selbstorganisierte Lernen so attraktiv macht. Andererseits birgt es auch die Gefahr, dass man sein Lernziel ohne den Druck Dritter nicht konsequent genug verfolgt. Sich selbst immer wieder so zu motivieren, dass alle Vorhaben gelingen, ist schwierig und fällt in der Gruppe, in Kursen, mit anderen Lernenden leichter als als „Einzelkämpfer“. Wer diesen Aspekt berücksichtigt und sicher ist, sich selbst immer wieder allein motivieren zu können, kann das selbstorganisierte Lernen praktizieren. Wer da unsicher ist, sollte auf eine der folgenden Formen zurückgreifen. Kurse / Seminare / Vorträge Die vermutlich häufigste Form der Weiterbildung ist die klassische Lernmethode in einem Vortrag, Seminar oder einem Kurs. Dass zahlreiche Institute diese Möglichkeit anbieten, erleichtert die Auswahl nicht unbedingt, eröffnet aber andererseits unheimlich viel Wege, sein Ziel zu erreichen. So können Lernwillige Volkshochschulkurse belegen, Kurse bei alternativen Anbietern, Wochenend-Seminare besuchen, sich Vorträge anhören oder an der Universität studieren. Die klassische Form ist für viele Menschen die beste Methode, etwas zu lernen, weil man in der Gruppe lernt und sich mit anderen Teilnehmern austauschen und vergleichen kann. E-Learning Mit der Entwicklung neuer Kommunikationswege erschließen sich auch die Anbieter von Weiterbildungsmaßnahmen immer neue Geschäftsfelder. Ein relativ junges Gebiet ist das sogenannte E-Learning. E-Learning steht für „elektronisch unterstütztes Lernen“ (wörtlich: „elektronisches Lernen“). Mit Hilfe elektronischer und/oder digitaler Medien für die Präsentation und Distribution von Materialien und zur Unterstützung der Kommunikation werden den Lernenden Inhalte vermittelt. Das E-Learning kann flankierend zur Unterstützung anderer Lehrmethoden oder auch ausschließlich eingesetzt werden. Gerade bei jüngeren Menschen ist es beliebt, weil viele von ihnen den Computer eh täglich mehrere Stunden nutzen. Multimedialität, Interaktivität und Lernen mit modernen Kommunikationsmitteln sind auf dem Vormarsch und werden in Zukunft sicher eine noch größere Rolle spielen. Fernunterricht Fernunterricht wird definiert als „Vermittlung von Kenntnissen und Fähigkeiten, bei der der Lehrende und der Lernende ausschließlich oder überwiegend räumlich getrennt sind und der Lehrende oder sein Beauftragter den Lernerfolg überwachen.“ Überwiegend räumlich getrennt bedeutet, dass es durchaus auch Anbieter gibt, die per Fernunterricht lehren, bei denen es aber auch Präsenzseminare- oder Kurse gibt. Der Vorteil für die Lernenden ist die individuelle, freie Zeiteinteilung. Fernschulen bieten als Materialien gedruckte Lehrhefte, audio- oder videobasierte Einheiten, computer- oder web-basierte Einheiten und per Post übermittelte Aufgaben an. Interessenten können an Fernschulen unter anderem Berufsabschlüsse und Bildungsabschlüsse machen, sie können aber auch zahlreiche berufliche Qualifikationsmaßnahmen und Spezialisierungen belegen. Training on/near/off the job „Training on the job“ bedeutet, dass Arbeitnehmer am Arbeitsplatz in dem Unternehmen, in dem sie beschäftigt sind, eine Weiterbildungsmaßnahme absolvieren. Das kann zeitlich flexibel gestaltet werden und hat den Vorteil, dass der Arbeitnehmer sich an gewohnter Stelle für den Job fortbildet. Bei „Training near the job“ findet die Weiterbildungsmaßnahme zwar im Unternehmen statt, aber nicht direkt am Arbeitsplatz. So gibt es zum Beispiel Weiterbildungsmaßnahmen wie Rhetorik, die in größeren Unternehmen in einem Seminarraum in der Firma stattfinden. Beim „Training off the job“ lernen Arbeitnehmer außerhalb des Unternehmens, zum Beispiel in den Räumen eines Anbieters von Weiterbildungsmaßnahmen. Weiterbildung und Sprachreisen im AuslandSehr beliebt sind Weiterbildungsmaßnahmen im Ausland. Zu Recht, können die Lernenden doch dort oft das Nützliche mit dem Angenehmen verbinden und neben der beruflichen Fortbildung von den Eindrücken eines fremden Landes profitieren.
Folge 1 Modalpartikel (tiểu từ tình thái) là một trong những nét đặc trưng nhất của ngôn ngữ Đức. Rất nhiều ngôn ngữ khác không hề có loại từ này, điển hình có thể kể đến là tiếng Anh. Đây là những từ đệm, chỉ được sử dụng trong ngôn ngữ nói chuyện hàng ngày và không gây ảnh hưởng đến cấu trúc cũng như ngữ pháp của câu (có nghĩa là thêm chúng vào hay bỏ chúng đi thì câu không hề sai hay thay đổi ý nghĩa). Chúng có tác dụng mang đến cho người nghe sắc thái, cảm xúc của người nói, bên cạnh thông tin chính. Vì lý do này, sẽ rất khó để có thể dịch hoàn chỉnh một Modalpartikel sang một thứ tiếng khác. Trong bài viết dưới đây, mình sẽ cố gắng giải thích các Modalpartikel trong tiếng Đức một cách dễ hiểu nhất có thể. 1. doch Ngoài chức năng là một Konjunktion (liên từ), khi được sử dụng như Modalpartikel, “doch” có chức năng thể hiện sự ngạc nhiên của người nói, khi người đối diện không biết một điều gì đó. Bsp. Ich habe die Hausaufgaben doch schon gemacht = Ich dachte, dass du weißt, dass ich die Hausaufgaben schon gemacht habe. Ngoài ra, nếu được sử dụng ở Imperativ (mệnh lệnh thức), “doch” sẽ khiến cho câu mệnh lệnh trở nên lịch sự hơn và bớt tính chất “ra lệnh”. Bsp. Setz dich doch hin! nghe sẽ lịch sự hơn là Setz dich hin! 2. ja Ngoài ý nghĩa đơn giản nhất là khẳng định, xác nhận một sự việc, khi được sử dụng như Modalpartikel, “ja” giúp người nói thể hiện với người nghe rằng, họ đang nói đến một sự việc mà có thể người nghe đã biết rồi. Bsp. Ich habe die Hausaufgaben ja schon gemacht = Ich bin mir ziemlich sicher, dass du weißt, dass ich die Hausaufgaben schon gemacht habe. Ngoài ra, “ja” cũng thể hiện sự bất ngờ (cả tiêu cực lẫn tích cực) của người nói về một tình huống cụ thể. Bsp. Das ist ja cool! Das ist ja schrecklich! = Das ist besonders cool/schrecklich. Khi được sử dụng ở Imperativ, “ja” có tác dụng làm mạnh thông điệp được truyền tải. Bsp. Mach das ja nicht! = Es wird etwas Schlechtes passieren, wenn du das machst. 3. denn Ngoài việc được dùng như một liên từ để kết nối 2 câu chính, khi được sử dụng như Modalpartikel, “denn” giúp người nói thể hiện sự hứng thú đặc biệt (chỉ dùng trong câu hỏi) Bsp. Wie heißt du denn? = Ich weiß wirklich nicht, wie du heißt, und möchte es wissen. 4. halt Bằng việc sử dụng “halt”, người nói muốn thể hiện rằng điều gì đó là như vậy và ta không thể thay đổi được nó. Vì vậy, ta thường thấy “halt” xuất hiện kèm với những câu mang tính định kiến (Klischees). Bsp. Das ist halt so! = Du musst akzeptieren, dass das so ist. Bsp. So sind die Männer halt = Ich denke, dass jeder weiß, dass Männer so sind, und ich kann daran nichts ändern. 5. eben Bằng việc sử dụng “eben”, người nói muốn thể hiện rằng họ đang phải làm một điều gì đó mà họ không thực sự muốn làm. Bsp. Ok, dann warte ich eben = Ich habe keine Lust zu warten, aber ich mache es nur für dich. Trong nhiều trường hợp, “eben” cũng được dùng để thay thế cho “halt”. Bsp. Sie ist eben nicht so motiviert = So ist das und ich kann das nicht ändern. 6. eh Bằng việc sử dụng “eh”, người nói muốn thể hiện rằng họ rất chắc chắn về một chuyện sắp xảy ra. Bsp. Er kommt eh zu spät = Er ist schon oft zu spät gekommen. Daher bin ich mir sicher, dass es heute genauso sein wird. Ngoài ra, người nói cũng dùng “eh” để thể hiện tầm quan trọng của việc làm một thứ gì đó. Tuy vậy, tình hình đã thay đổi và việc đó không còn quan trọng nữa. Bsp. Jetzt können wir eh nicht mehr gewinnen = Ich wollte etwas machen, damit wir gewinnen. Aber in der neuen Situation wird das auch nicht mehr helfen. 7. mal “mal” chỉ được sử dụng khi yêu cầu hoặc cầu xin ai đó. Người nói thông qua việc sử dụng “mal” thể hiện rằng tự họ không thể làm được điều gì đó ngay lúc này. Bsp. Mach mal bitte die Wohnung sauber! = Ich habe gerade keine Zeit, die Wohnung sauber zu machen. Kannst du es bitte machen? “mal” cũng được sử dụng khi người nói muốn nhắc nhở người nghe rằng họ đã nhắc người đó về một việc rồi nhưng họ vẫn chưa làm. Bsp. Kannst du mal aufstehen? = Ich warte schon länger auf dich. “mal” cũng giúp cho yêu cầu từ người nói trở nên thân thiện hơn. Bsp. Mach mal die Musik aus! sẽ thân thiện hơn là Mach die Musik aus! 8. gar “gar” chỉ có thể dùng chung với từ phủ định (“nicht” hoặc “kein”). Tương tự như “wirklich” hay “überhaupt”, thể hiện mức độ tuyệt đối của một sự việc. Bsp. Ich habe gar keine Zeit = Ich habe wirklich keine Zeit, nicht mal eine Sekunde. Tác giả: Kobe
Kể từ ngày đầu tiên của năm nay, lệnh cấm hút thuốc ở tất cả các địa điểm công cộng như nhà hàng, vũ trường, quán rượu và quán bar đã được ban hành. Đương nhiên ngành kinh doanh ẩm thực sẽ chịu ảnh hưởng đặc biệt nặng nề. Các chủ cửa hàng đều nghĩ rằng việc cấm hút thuốc ở đây là điều không tưởng. Vì vậy, không đáng ngạc nhiên khi mỗi tiểu bang đều đang đấu tranh để được miễn trừ và không ngần ngại có những hành động pháp lý chống lại lệnh cấm hút thuốc này để giữ chân khách hàng của mình. Cấm hút thuốc trong ngành kinh doanh ẩm thực: Tuy nhiên, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư của Đức hiện đang phân tích và cho rằng, lệnh cấm hút thuốc sẽ không làm giảm doanh thu trong ngành kinh doanh ẩm thực. Ngược lại, theo nghiên cứu của họ, doanh số bán hàng của chủ nhà hàng thậm chí sẽ tăng và do đó, nguy cơ mất việc của nhân viên là điều có thể bỏ qua. Như vậy, những lời khiếu nại của các nhà hàng là hoàn toàn không có cơ sở. Hút thuốc thụ động: Có thể liệt kê ra rất nhiều ưu điểm của lệnh cấm hút thuốc, đặc biệt là đối với những người không hút thuốc nhưng đang vô tình trở thành người hút thuốc thụ động. Mặt khác, chỉ riêng khói thuốc đã là một cực hình đối với họ, bởi vì họ bị ép buộc phải ngửi khói thuốc thải ra. Trước đây, sự nguy hại của chúng đối với trẻ em cũng bị đánh giá quá thấp. Bọn trẻ không được bảo vệ trước việc phải tiếp xúc với việc hút thuốc trong nhà hàng. Tuy nhiên, một ưu điểm lớn không thể chối bỏ là tỉ lệ các bệnh về tim mạch hoặc các bệnh tật khác liên quan đến khói thuốc sẽ được giảm thiểu. Đúng là một niềm vui không tưởng khi nghĩ rằng lệnh cấm hút thuốc tại các nơi công cộng sẽ thực sự khiến những người hút thuốc cai được thói quen cầm điếu thuốc lá. Hút thuốc ngoài trời: Người ta có thể buộc phải đi ra ngoài để đến với điếu thuốc yêu quý của mình, nhưng rất ít người sẽ từ bỏ hút thuốc vì luật cấm này. Dù gì thì bây giờ họ đều cảm thấy bị phân biệt đối xử vì quyền tự do của họ bị hạn chế. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi lệnh cấm hút thuốc đã nhận được không ít lời chỉ trích. Cấm hút thuốc là vấn đề của cả đất nước: Không hề có một quy định rõ ràng cho vấn đề này, bởi vì mỗi bang nên tự quyết định xem lệnh cấm hút thuốc nên được ban hành ở mức nào (tùy thuộc vào tình hình ở bang đó). Do vậy, một số quán bar với kết cấu thông phòng đã lại nhận được một số ngoại lệ. Vì không hề có không gian riêng biệt nào, người ta được phép hút thuốc thoải mái ở đây. Người ta cũng được phép hút thuốc trong một số quán bar nhất định nếu toàn bộ không gian hoàn toàn tách biệt với nhau. Câu hỏi đặt ra là: lệnh cấm hút thuốc này thực sự mang lại điều gì? Lệnh cấm hút thuốc – Ưu điểm: Những người không hút thuốc không còn trở thành nạn nhân của hút thuốc thụ động nữa Các quán cà phê và quán rượu giờ đây trở nên phù hợp hơn với các gia đình Lệnh cấm hút thuốc – Nhược điểm: Nhìn chung, lệnh cấm hút thuốc sẽ khó có thể hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá Nếu số người hút thuốc lá giảm thì thu nhập từ thuế đánh vào mặt hàng này sẽ giảm đi Kết luận: Do quy định cấm hút thuốc lá, nhiều người hút thuốc bị cấm “ra đường”. Tuy nhiên, nó không phải là một sự cải thiện thực sự cho tình hình hiện nay. Người hút thuốc lá vẫn luôn là một hình mẫu không tốt đối với trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là khi rất nhiều người hút thuốc trước các quán rượu và quán cà phê. Ưu điểm duy nhất mà lệnh cấm hút thuốc mang lại là người ta không còn bị buộc phải “hút thuốc cùng” nữa. Chuyển dịch: Mona Minh họa: Bích Diệu Bài viết gốc với tiêu đề “Rauchverbot” được đăng trên http://www.pro-und-kontra.info/gesellschaft/rauchverbot/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Seit dem ersten Januar dieses Jahres besteht ein Rauchverbot in allen öffentlichen Einrichtungen, wie Restaurants, Diskotheken, Kneipen und Bars. Besonders hart trifft es natürlich die Gastronomie. Hier ist ein Rauchverbot schließlich undenkbar, denken sich die Besitzer.So ist es nicht verwunderlich, dass jedes Bundesland mittlerweile Ausnahmegenehmigungen anstrebt und auch vor Klagen gegen dieses Rauchverbot nicht zurückschreckt, damit man sich seine Kunden erhält. Rauchverbot in der Gastronomie: Nun hat jedoch das Deutsche Krebsforschungszentrum gerade analysiert, dass durch das Rauchverbot keineswegs der Umsatz in der Gastronomie wegbricht. Im Gegenteil, laut ihrer Studie erwirtschaften die Gastronomen sogar ein Umsatzplus und von einer Gefährdung der Arbeitsplätze kann daher keine Rede sein. Somit scheinen die Klagen der Gastronomen völlig unbegründet zu sein. Passivrauch: Vorteile des Rauchverbots kann man daher sehr viele aufzählen, gerade für Nichtraucher die unfreiwillig zu Passivrauchern geworden sind. Zum Einen ist der blaue Dunst gerade für Nichtraucher eine Qual, da sie gezwungenermaßen zu Rauchern werden. Auch die bisherige Gefahr für Kinder wurde immer unterschätzt. Diese sind in Lokalen auch dem Rauchen schutzlos ausgesetzt gewesen. Ein Vorteil der jedoch etwas in Frage gestellt werden muss, ist, dass Herzerkrankungen oder andere durch Rauchen verursachte Krankheiten zurückgehen. Es ist eine reine Utopie zu denken, dass man mit einem Rauchverbot an öffentlichen Orten tatsächlich den Rauchern ihren Glimmstengel abgewöhnt. Raucher im Freien: So ist man zwar gezwungen für die geliebte Zigarette nach draußen zu gehen, doch aufhören werden durch das Rauchverbot die Wenigsten. Immerhin fühlen sie sich jetzt diskriminiert, da man sie in ihrer Freiheit einschränkt. So ist es nicht zu verdenken, dass das Rauchverbot in die Kritik geraten ist. Rauchverbot ist Ländersache: Es gibt keine klaren Richtlinien, da jedes Bundesland selbst entscheiden soll, in wie weit es das Rauchverbot durchsetzt. So gibt es schon wieder Ausnahmeregelungen für Ein-Raum-Kneipen. Hier darf weiter geraucht werden, da es keinen separaten Raum gibt. Auch darf man in gewissen Lokalen rauchen, wenn das Ganze räumlich voneinander getrennt ist. Da fragt man sich, was das Rauchverbot eigentlich gebracht hat. Rauchverbot – Pro: Nichtraucher werden nicht automatisch Passivraucher Cafes und Kneipen sind nun viel Familienfreundlicher Rauchverbot – Contra: Ein Rauchverbot wird insgesamt den Zigarettenkonsum kaum eindämmen können Sollte doch weniger geraucht werden sinken die Einnahmen durch Tabaksteuer Fazit: Durch das Rauchverbot werden zwar viele Raucher “auf die Strasse” verbannt. Eine wirkliche Verbesserung der Situation ist es jedoch nicht. Rauche sind immer noch ein schlechtes Vorbild für Kinder und Jugendliche, besonders wenn vor den Kneipen und Cafes viele Menschen rauchen. Der einzige Vorteil den das Rauchverbot gebracht hat ist das man nicht mehr zwangsweise “mitraucht”.