Rất nhiều bạn học tiếng Đức đều có chung một nỗi lo, đó chính là việc học từ mới. Bản thân tôi khi còn ở Việt Nam cũng nhận thấy học từ mới theo phương pháp truyền thống là chưa hiệu quả, kiểu như “Frauen: phụ nữ” (chép lại 10 lần). Không chỉ tiếng Đức, mà hầu như ngoại ngữ nào ở Việt Nam chúng ta cũng học từ mới kiểu như vậy. Tuy nhiên, sau khi sang Đức một thời gian, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề mở rộng vốn từ và đã đúc kết được một phương pháp tôi cho là hợp lý cho riêng mình. Phương pháp đó gọi là „Neue Wörter durch Kontexte und Wortfamilie“. Để cho dễ hiểu, tôi sẽ lấy ví dụ với việc học một từ khá hay gặp, đó là từ „bekommen“. Việc tôi làm khi gặp từ „bekommen“ được chia ra làm 2 hướng như sau: – Hướng 1: Tìm tất cả các nét nghĩa của từ „bekommen“ bằng việc tìm ra những ngữ cảnh (Kontext) mà người ta sử dụng từ đó. Lưu ý: Luôn luôn học bằng ví dụ, không bao giờ chúng ta nên viết kiểu như này: bekommen: nhận được (receive). Bekommen (1): von jemandem etwas erhalten Bsp: Heute habe ich einen Brief von meiner Freundin bekommen. (Hôm nay tôi đã nhận được một bức thư từ bạn gái của tôi.) Bekommen (2): etwas kaufen können (gegen Geld erhalten) Bsp.: Das Buch ist ein Bestseller. Es war seit letzter Woche ausverkauft und ist nicht mehr zu bekommen. (Cuốn sách này bán rất chạy. Nó đã hết hàng từ tuần trước và không thể tìm mua được nữa.) Bekommen (3): als Umschreibung des Passivs Bsp.: Die Unterlagen habe ich heute zugeschickt bekommen. (Hôm nay tôi đã nhận những giấy tờ được gửi đến.) Ngoài ra còn những nét nghĩa khác của từ bekommen, tuy nhiên vì giới hạn bài viết nên tôi sẽ dừng lại ở ba nét nghĩa mà tôi cho là quan trọng nhất của động từ này. – Hướng 2: Tìm tất cả các từ được cấu trúc từ „bekommen“. Những từ đó có thể chia ra thành các nhóm sau đây: Nhóm thêm tiền tố cho „bekommen“ -> động từ Nhóm danh từ Nhóm tính từ (trạng từ) Cụ thể mời các bạn tham khảo hình dưới đây. Chúc các bạn học từ mới hiệu quả Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ
Monthly Archives: May 2021
Đây là một vấn đề mình đã đề cập rất nhiều với các học sinh của mình, đặc biệt những em mới tham gia học.Mình luôn luôn nói rằng, giáo viên dù có là bất cứ ai, Profile khủng cỡ nào thì vẫn chỉ là con người, và bọn mình không thể nào đảm bảo cho các bạn học mấy tháng sẽ xong trình độ này, trình độ kia. Yếu tố quyết định của việc bạn có học tốt hay học nhanh được hay không, phụ thuộc chủ yếu vào bản thân bạn. Còn dưới tư cách giáo viên, chúng mình sẽ chỉ hướng dẫn bạn, trả lời những câu hỏi mà bạn chưa biết hay đưa ra lời khuyên cho bạn mà thôi. Vậy làm thế nào để tự học? Chúng ta hãy cùng tham khảo những quan điểm dưới đây: 1. Từ bỏ tiếp thu kiến thức thụ động Việc giảng dạy không chỉ riêng ngôn ngữ, mà cả những môn học khác ở Việt Nam nói chung đều theo hướng „Tầm sư học đạo“, có nghĩa là muốn học tốt thì phải tìm thầy/cô hay. Quan điểm này không sai, nhưng có lẽ các bạn quên rằng ở thời đại ngày nay, tất cả những thứ xung quanh ta đều có thể trở thành thầy của ta. Chúng ta có người chị vĩ đại Google, có sách báo, có Youtube, có Netflix, có mạng xã hội, có tất cả mọi thứ. Đừng chờ đến khi giáo viên giảng về một vấn đề rồi tiếp thu nó một cách thụ động qua giáo viên, đừng chờ đến khi giáo viên giao bài cho bạn rồi mới bắt đầu làm, đừng chờ giáo viên phải kiểm tra bài cũ để xem các bạn có hiểu bài hay không. Hãy tìm hiểu trước, hãy đọc trước, hãy có kiến giải cho riêng mình, và hãy đặt thật nhiều câu hỏi. Mình hay nói với các bạn học sinh, tôi sẽ trả lời đủ 1000 câu hỏi của các bạn, nhưng nếu câu hỏi là: „Em không biết gì chỗ này anh nói từ đầu được không?“, thì rất tiếc là mình sẽ không trả lời câu này. Việc học là của các bạn và cho tương lai các bạn, làm sao mà các bạn lại để mình có trách nhiệm với nó hơn cả các bạn được, phải không? 2. Hãy hiểu vấn đề, chứ đừng chỉ biết Ở đây có một câu hỏi phổ biến là: „Vậy như thế nào là hiểu vấn đề?“. Ở đây mỗi người mỗi ý, nhưng theo quan điểm cá nhân của mình, hiểu được một vấn đề, có nghĩa là phải GIẢI THÍCH ĐƯỢC CHO NGƯỜI KHÁC HIỂU VẤN ĐỀ ĐÓ BẰNG NGÔN NGỮ CỦA BẠN. Như các bạn có thể thấy ở biểu đồ hình kim tự tháp phía trên, dạy người khác về một vấn đề là cách tốt nhất để bạn học hiểu vấn đề đó, trái lại với việc chỉ học từ trên lớp. Nếu bạn nào đã học với mình, chắc không còn lạ gì cái câu hỏi: „Bây giờ chúng ta có 4 cách, 3 trong số đó có vai trò đặc biệt quan trọng là Nominativ, Akkusativ và Dativ. Có ai biết tại sao chúng ta lại cần có 3 cách đó hay không?“. Với những câu hỏi kiểu như vậy, hoặc là bạn hiểu vấn đề, còn không thì bạn chỉ có thể nói vẹt lại là tiếng Đức có mấy cách và mỗi cách thì Artikel viết như nào mà thôi! Vì vậy, lời khuyên cho các bạn là hãy cố gắng giải thích ra cho bạn học và cho cả giáo viên nữa, rằng các bạn hiểu những thứ các bạn mới được học như thế nào. Điều này đồng nghĩa với việc rèn luyện thêm kĩ năng thuyết trình nữa đấy nhé! Và các bạn biết kĩ năng thuyết trình dùng cho phần thi nào rồi đấy xD! 3. Hãy bắt tay vào làm, chứ đừng chỉ nghĩ Phương pháp thì mình luôn sẵn sàng đưa cho các bạn, tài liệu và kinh nghiệm cũng thế, nhưng có thực sự làm hay không, thì mình chịu và chỉ có các bạn mới biết được. Nhiều bạn rất hay có nghi ngờ rằng, liệu phương pháp này đúng không, liệu học thế có ăn thua gì không? Cái tình huống này thật ra khá giống mấy anh choai choai đang không biết có nên tỏ tình với crush hay không, vì sắp ra trường. Thế để mình nói luôn với các bạn quan điểm của mình: Thà bị từ chối hay là yêu xong thấy không hợp rồi chia tay, còn dễ chịu hơn là không bao giờ dám nói ra xong rồi lại tiếc. Việc học cũng vậy, không có phương pháp nào là tối ưu cho tất cả mọi người, nhưng các bạn có quyền thử nghiệm và thay đổi nếu cần cơ mà. Ai bắt các bạn phải học như thế mãi đâu? Nhưng ít nhất phải trải nghiệm và thật sự làm trong một khoảng thời gian đủ dài thì bạn mới đủ thông tin để đánh giá một cách làm chứ, phải vậy không? Thế nên, nếu thấy cách làm gì đó hay và nghĩ rằng có thể nó sẽ mang lại gì đó, hãy làm nó đi đã. Có một câu mình thấy rất hay liên quan đến công việc: „Nếu các bạn cảm thấy không thích công việc mình đang làm, hãy từ bỏ nó, hoặc là yên lặng và làm tiếp!“ 4. Hãy viết thật nhiều Đúng vậy, như mình đã nói, ngôn ngữ đối với mình là công cụ giao tiếp. Mà đã là công cụ, nếu không được đưa ra sử dụng thường xuyên, lẽ đương nhiên là công cụ đó sẽ nhanh chóng cùn mòn và kém hiệu quả trong công việc. Việc viết ra bằng tiếng Đức giúp chúng ta rèn luyện cùng lúc một loạt những thứ sau đây: sức sáng tạo, tư duy logic, khả năng chọn lọc, kĩ năng trình bày, tính cẩn thận và đương nhiên là cả ngữ pháp tiếng Đức nữa. Tương tự như một bài viết bàn về kĩ năng nói, mình luôn muốn mọi người hãy là chính mình khi viết. Cụ thể là, hãy viết như cách bạn suy nghĩ, và hãy tập luyện để những gì bạn viết ra có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trước khi để ý đến việc dùng từ hay, từ khó hay các loại Redemittel. Mình không phủ nhận việc học nhiều từ hay và các loại Redemittel giống như người Đức sẽ làm bài viết của các bạn hay và “deutsch” hơn rất nhiều. Tuy nhiên, xin đừng học thuộc lòng 1 đống Redemittel cho sẵn và cố gắng hình thành nội dung bài viết sao cho nhét được thật nhiều Redemittel vào để lấy điểm cao. Hãy hình thành nội dung bài viết một cách tự nhiên và dùng Redemittel vào những vị trí mà bạn cho là phù hợp, hoặc nếu chưa biết, hãy cứ viết theo cách của bạn. Có rất nhiều sự hỗ trợ từ khắp nơi có thể giúp các bạn chỉnh sửa lại cách viết cho tốt hơn (Deutsch mit Kobe chả hạn xD). Quan trọng nhất, mình nhắc lại, là các bạn phải viết ra, càng nhiều càng tốt. Đừng sung sướng khi nhìn thấy bài viết mẫu của người khác nữa. Các bạn có thể học thuộc 40-50 bài viết mẫu để vượt qua 1 kì thi, nhưng các bạn không thể nào học thuộc cả cái ngôn ngữ này cũng như những tình huống trong cuộc sống để mà đem ra dùng khi sang Đức. Lúc đó, mình tin các bạn sẽ hối hận vì đã không dùng thời gian, sức lực và cả tiền bạc một cách hợp lý hơn đấy! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Phân tích biểu đồ là phần thi phổ biến trong các kì thi chuẩn hóa như Goethe Zertifikat C1, TestDaF hay DSD. Hôm nay, chúng mình xin giới thiệu đến các bạn những mẫu câu điển hình được sử dụng để phân tích biểu đồ cũng như một vài ví dụ về việc phân tích các dạng biểu đồ khác nhau nhé! A – PHẦN MỞ ĐẦU – EINLEITUNG 1. Was ist der Titel oder Inhalt der Grafik? Das Diagramm zeigt … Die Grafik stellt … dar. Die Tabelle / Das Schaubild / Die Grafik zeigt, dass / wie … Die vorliegende Grafik / Die Tabelle / Das Schaubild / Die Statistik / Das Diagramm gibt Auskunft über … In der Grafik geht es um … Das Thema der Grafik / des Schaubildes ist … Aus der Statistik ist zu ersehen, dass / wie … Dem Schaubild ist zu entnehmen, dass / wie … Das Schaubild stellt … dar. Das Schaubild stellt dar, wie … Was das Schaubild zeigt, ist … Aus dem Diagramm geht hervor, dass / wie … Aus der Tabelle ergibt sich, dass … 2. Wann wurden die Daten erhoben und wie werden sie dargestellt? Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf das Jahr / die Jahre … Die Angaben sind in … (Euro, Prozent, Kilo usw.) Die Werte sind in … angegeben. Die Daten stammen aus dem Jahr … Die Angaben basieren auf einer repräsentativen Umfrage unter …, die in der Zeit vom … bis zum … durchgeführt wurde. Als Basis für den Index wurde das Jahr …. ( = 100 %) gewählt / festgesetzt. 3. Woher stammen die Daten? Die Daten stammen von … / aus einer Umfrage von … Das Schaubild wurde vom … erstellt / herausgegeben. Die Grafik wurde dem / der … entnommen. 4. Wer hat die Daten erhoben? Die Quelle des Schaubildes / der Grafik / des Diagramms ist … Die Zahlen legte (das Statistische Bundesamt, das Institut für …) vor. B – PHẦN THÂN BÀI: MIÊU TẢ VÀ PHÂN TÍCH – BESCHREIBUNG UND ERKLÄRUNG 5. Beschreiben: Aus dem Schaubild geht hervor (geht nicht hervor), dass … Es fällt auf, dass … Es ist interessant, dass … Auffällig ist, dass … Überraschend ist, dass … Erklären lassen sich diese Zahlen möglicherweise mit … Mit / In der Abbildung / Grafik / dem Schaubild soll gezeigt werden, dass … Wie die Tabelle zeigt, … Der Tabelle lässt sich entnehmen, dass … Die Verteilung der Werte für die einzelnen Gruppen / Kategorien ist äußerst uneinheitlich / einheitlich. Als Haupttendenz lässt sich feststellen / erkennen, dass … Es lässt sich eine deutliche Tendenz in Richtung … erkennen. Auf der X / Y-Achse sieht man … 6. Reihenfolge: An erster / zweiter / dritter / … / letzter Stelle steht … Auf dem ersten Platz steht … Den ersten / … Platz belegt … Die erste /… Stelle nimmt … ein. Dann / Danach folgt … mit … Letzter ist … Das Schlusslicht bildet … 7. Entwicklung: Der Anteil / Die Zahl der … ist von (Jahr) / im Jahre … auf … gestiegen / angestiegen / angewachsen / gesunken / zurückgegangen. Der Anteil von der … ist um fast/ mehr als … % gestiegen / gesunken. Die Zahl der … hat sich zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% erhöht / verringert. Die Zahl der … hat zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% zugenommen / abgenommen. In den vergangenen … Jahren steigerte / erhöhte / verringerte sich die Zahl der … um …% Im Zeitraum von … bis… hat sich die Zahl der … fast / mehr als verdoppelt / verdreifacht / vervierfacht. 8. Vergleich: Im Vergleich zu … ist die Zahl der … um …% höher/ niedriger. Im Gegensatz / Im Unterschied zu … ist der Anteil der … um …% gefallen/ gestiegen. Verglichen mit … hat sich die Zahl (von … / der …) um …% gesteigert / verringert. Der Anteil der … ist geringer / höher als der bei … Während … um … stieg, ist … um … gesunken. Für die Gruppe der … ist … wichtiger / bedeutender als für die Gruppe der … Gegenüber … ist … Im Gegensatz/ Unterschied zu … liegt … deutlich höher/ niedriger als … Erwirtschaftete / Erzielte (Jahr) ein Arbeitnehmer eine/n … von …, so kam er (Jahr) bereits auf eine/n … von … . Gaben (Jahr) noch …% der Befragten an, dass sie …, waren es (Jahr). nur noch … C – KẾT LUẬN – KOMMENTARE UND SCHLUSSFOLGERUNGEN. Abschließend kann man feststellen, dass … in den letzten Jahren tendenziell steigt / sinkt. Die Grafik zeigt deutlich den kontinuierlichen Rückgang / Anstieg … In Bezug auf den Zeitraum kann gesagt werden, dass…. Es fällt auf / Es ist unverkennbar / Überraschend ist, dass … Leider kann man nicht deutlichen sehen, dass … Aus der Grafik geht leider nicht hervor, wie … Aus dem präsentierten Datenmaterial lässt sich nicht ersehen, ob / wie… In Bezug auf mein Heimatland sind ähnliche / unterschiedliche Tendenzen zu sehen. Auch in meinem Heimatland würde die Grafik / Tabelle / das Diagramm ähnlich aussehen. >>> Động từ nói về sự tăng trưởng: sich erhöhen, sich steigern, ansteigen, erhöhen, steigen, zunehmen, zulegen, steigern, usw. >>> Động từ nói về tình trạng suy thoái, giảm sút: sich verringern, sich vermindern, abnehmen, fallen, schrumpfen, sinken, senken, reduzieren, usw. CÁC VÍ DỤ CỤ THỂ – BEISPIELE Beispiel 1: Die Grafik zeigt die Entwicklung der Lebenserwartung der Deutschen von 1910 bis heute. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1910, 1932, 1960 und heute. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt und wurden in vier unterschiedlichen Zeiträumen erhoben. Die Lebenserwartung wird in Form von Säulen dargestellt. Es gibt immer zwei Säulen pro Zeitraum, eine blaue und eine rote Säule. Rot ist für die Lebenserwartung der Frauen und blau ist für die Männer. Es lässt sich eine deutliche Tendenz erkennen: Die Deutschen werden immer älter. Am Anfang des letzten Jahrhunderts wurden die deutschen Männer nur ungefähr 45 Jahre alt und die Frauen nur ca. 48 Jahre alt. Heute werden sie fast doppelt so alt. Die Frauen in Deutschland werden im Durchschnitt knapp 82 Jahre alt und die Männer ungefähr 76 Jahre alt. Wie die Tabelle auch zeigt, werden Männer, die 1932 geboren wurden, ungefähr 60 Jahre und die Frauen ungefähr 63 Jahre alt. Männer, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits fast 7 Jahren älter. Die Frauen, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits 10 Jahre älter. Insgesamt wird deutlich, dass die Frauen im Durchschnitt älter werden als die Männer. Es ist auch zu erkennen, dass es sich um Durchschnittszahlen handelt. Meine Großeltern zum Beispiel wurden ungefähr 1920 geboren und sind bereits fast 90 Jahre alt – also älter als der Durchschnitt von denen, die heute geboren werden. Beispiel 2: Der Titel der Grafik heißt Einwohner je Arzt und Zahnarzt. In der Grafik kann man sehen, wie viele Einwohner ein Arzt bzw. ein Zahnarzt in den unterschiedlichen Zeiträumen im Durchschnitt betreut. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1970, 1980, 1991, 2000 und 2003. Sie sind in absoluten Zahlen dargestellt. Es ist ein Säulendiagramm. Für die Zeiträume gibt es jeweils 2 unterschiedliche Säulen. Die hellblaue Säule stellt die Anzahl der Einwohner pro Zahnarzt dar und die andere, die dunkelblaue Säule, stellt die Anzahl der Einwohner pro Arzt dar. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt. Man kann eine deutliche Tendenz erkennen. Der Anteil der Einwohner pro Arzt ist von 1970 bis 2003 gesunken. Das bedeutet, dass es immer mehr Ärzte und Zahnärzte in der Bundesrepublik Deutschland gibt. Es kann auch bedeutet, dass die medizinische Versorgung in Deutschland von 1970 bis 2003 besser geworden ist. Ein Arzt musste 1970 im Durchschnitt 615 Einwohner versorgen. Im Jahre 2003 musste er nur noch weniger als die Hälfte versorgen, nämlich 271 Personen. Der Anteil ist also um fast 56 Prozent gesunken. Im Gegensatz dazu muss ein Zahnarzt 2003 noch rund 1280 Personen betreuen. Das entspricht einem Rückgang von fast 40 Prozent. Im Allgemeinen kann man sagen, dass es immer mehr Ärzte als Zahnärzte gegeben hat. Beispiel 3: Das Schaubild zeigt den Anteil der Privatschulen im Jahre 2008. Die Daten wurden vom Statistischen Bundesamt erhoben und werden in Prozent dargestellt. Man sieht sechs Säulen mit 2 unterschiedlichen Farben bzw. Mustern. Die Muster stehen für allgemeinbildende Schulen und berufliche Schulen. Die Säulen für die beruflichen Schulen sind schräg gestreift und die Säulen für die allgemeinbildenden Schulen haben ein Karo-Muster. Von allen privaten Schulen in Deutschland haben im Jahr 2008 rund drei Fünftel zu den allgemeinbildenden Schulen und die restlichen zwei Fünftel zu den beruflichen Schulen gehört. Man kann auch drei Kategorien erkennen: Deutschland, frühes Bundesgebiet und neue Länder. Für Gesamtdeutschland sieht man, dass ca. 9 Prozent der allgemeinbildenden Schulen und mehr als doppelt so viele Berufsschulen Privatschulen sind. Ähnliche Tendenzen sieht man auch in der Kategorie „Früheres Bundesgebiet”. Demgegenüber ist der Anteil der Privatschulen in den neuen Bundesländern deutlich höher als in den alten Bundesländern. Mit fast 32 Prozent liegt der Anteil der privaten Berufsschulen in den neuen Bundesländern fast doppelt so hoch wie in den alten Bundesländern. Man kann aber feststellen, dass der Anteil der allgemeinbildenden Schulen sowohl in den neuen als auch in den alten Bundesländern fast gleich hoch ist. Auch kann man sagen, dass der Anteil der Berufsschulen doppelt bzw. dreimal so hoch ist wie der Anteil der allgemeinbildenden Schulen. Leider kann man nicht deutlich sehen, warum das so ist. Es wäre auch interessant, den Anteil von Privatschulen in anderen Schulformen zu sehen. In der Grafik fehlt meiner Meinung nach eine Darstellung der Entwicklung. Es würde mich interessieren, wie der Anteil der Privatschulen in den Jahren vor 2008 war. Bài viết có tham khảo dữ liệu từ: www.wirtschaftsdeutsch.de www.sprachzentrum.com.ar Tác giả: Cẩm Chi
Các ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả những động tác và làm rõ ý của người truyền đạt. Trái lại, ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả những khái niệm và mang đến cái nhìn toàn cảnh cho sự việc được nhắc tới. Một dân tộc càng tiến bộ sẽ sở hữu càng nhiều khái niệm trừu tượng và ngôn ngữ của dân tộc đó cũng trở nên trừu tượng hơn. Lý do là vì một khái niệm trừu tượng bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một động từ. Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau đây. Giữa hai câu: “Tôi đi sang Đức” và “Việc đi sang Đức của tôi” có sự khác biệt rõ rệt. Câu đầu tiên tuy rất rõ ràng và dễ hiểu nhưng chỉ diễn tả hành động cụ thể là “đi sang Đức”. Câu thứ hai trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà còn là tất cả các sự kiện dính liền với hành động trên, chẳng hạn “đi với ai”, “đi như thế nào”, “bao giờ đi”, vv và vv. Tiếng Việt của chúng ta đương nhiên cũng có lối hành văn sử dụng danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng hơn. Vì vậy, chắc ai trong số chúng ta cũng đều đồng ý rằng câu “Tôi đi sang Đức” nghe vẫn cảm thấy quen tai hơn. Thế nhưng, là một đất nước sở hữu rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học với những phát minh, lý thuyết đồ sộ, việc ghi chép và lưu trữ nguồn tư liệu khổng lồ đó biến tiếng Đức dần dần trở thành một ngôn ngữ lấy danh từ làm chủ đạo. Bằng cách này, những tư tưởng được đề cập vừa duy trì được tính bao quát và vững chắc, vừa đảm bảo cắt giảm số lượng câu từ để việc lưu trữ đạt hiệu quả cao nhất. Các câu văn dùng nhiều danh từ mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn, rất phù hợp để diễn tả những ý kiến tổng quát và khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc, thay vì những ý kiến cụ thể giới hạn cho từng trường hợp. Đến đây chắc chúng ta cũng đã rõ, tại sao một người Việt Nam lại cảm thấy khó khăn khi học tiếng Đức hơn một người đến từ Anh. Vấn đề không chỉ đơn giản nằm ở mức độ khó hay dễ của tiếng Đức, vấn đề có lẽ xuất hiện ngay từ việc chúng ta đến từ một đất nước với một hệ ngôn ngữ trái ngược. Tuy vậy, ngay bản thân tiếng Đức cũng luôn tồn tại song song hai phong cách diễn đạt một vấn đề như đã nhắc đến ở trên, đó chính là Verbalstil và Nominalstil. Nhìn vào gốc của hai từ, chúng ta dễ dàng nhận ra “Verb” (động từ) và “Nomen” (danh từ). Khi nói chuyện bình thường trong cuộc sống hàng ngày, rõ ràng chúng ta sử dụng chủ yếu là động từ và qua đó, thể hiện một cách tường minh và sống động điều mà chúng ta mong muốn. Vì lý do này, Verbalstil được sử dụng nhiều hơn trong văn nói và còn có các tên gọi quen thuộc khác như “Alltagssprache” hay “Umgangssprache”. Ngược lại, Nominalstil được sử dụng chủ yếu trong các văn bản mang tính học thuật, hàn lâm, chính trị hay hành chính. Các văn bản này sử dụng rất nhiều các cấu trúc gồm danh từ đi kèm giới từ và do đó, đòi hỏi nền tảng ngữ pháp cao hơn nhiều so với việc sử dụng động từ. Do vậy, dù với tư cách là một người Việt học tiếng Đức hay một người yếu kĩ năng viết (một kĩ năng khó với rất nhiều người), chúng ta cần thành thục cách để chuyển đổi từ Verbalstil sang Nominalstil, hay như trong tiếng Đức chúng ta gọi là “Nominalisierung”. Vậy thì có những phương án nào cho “Nominalisierung” và làm thế nào để có thể “nominalisieren” thành công? Vì giới hạn cũng như định hướng bài viết, mình chỉ đề cập đến “Nominalisierung” từ động từ và tạm bỏ qua các loại từ khác. Sau đây là các cách để biến đổi một động từ thành một danh từ trong tiếng Đức: Thay đổi trạng thái của động từ bằng thành phần bổ sung (Explizite Derivation) Xuất phát từ một động từ, chúng ta có thể tạo ra một danh từ mới thông qua việc thêm vào các thành phần bổ sung (Affigierung), ví dụ như tiền tố (Präfix), hậu tố (Suffix) hoặc kết hợp cả 2 thành tố trên (Zirkumfix). Trong trường hợp này, bản chất của động từ ban đầu không hề bị thay đổi và giống của danh từ nhận được thông qua quá trình này sẽ được quyết định hầu hết thông qua Affigierung. Ví dụ, từ các động từ “bilden”, “ergeben” và “wachsen“ chúng ta có thể cấu tạo ra danh từ thông qua việc thêm vào các hậu tố mang xu hướng danh từ hóa (nominale Suffixe): bilden + ung -> die Bildung ergeben + nis -> das Ergebnis wachsen + tum -> das Wachstum Không thay đổi trạng thái của động từ, không sử dụng thành phần bổ sung (Konversion) Trái ngược với việc thay đổi trạng thái của động từ ban đầu (Wortartwechsel), chúng ta chỉ đơn giản chuyển thể một động từ thành một danh từ thông qua việc thêm vào quán từ (Artikel). Ở đây, ta lại có 2 trường hợp riêng biệt gồm: Cấu tạo danh từ giữ nguyên động từ (syntaktische Konversion) và cấu tạo danh từ giữ một phần động từ (morphologische Konversion). Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy tham khảo các ví dụ sau đây: lernen -> das Lernen (syntaktische Konversion) treffen -> das Treffen (syntaktische Konversion) beginnen -> der Beginn (morphologische Konversion) kaufen -> der Kauf (morphologische Konversion) Thay đổi trạng thái của động từ không sử dụng thành phần bổ sung (implizite Derivation) Lấy một phần từ cả 2 phương pháp trên, cách thứ 3 này sẽ vừa thay đổi trạng thái động từ ban đầu (Wortartwechsel) và vừa không sử dụng bất kì thành phần bổ sung (Affigierung) nào. Để phân biệt với trường hợp thứ 2 chúng ta sử dụng khái niệm „Sự thay đổi bản chất của từ“ (Stammvokalwechsel). Để hiểu rõ hơn, hãy cùng tham khảo các ví dụ sau đây: finden -> der Fund gehen -> der Gang genießen -> der Genuss schreiten -> der Schritt Một trong những ưu điểm dễ nhận thấy nhất của việc sử dụng danh từ đó là đôi khi chúng ta có thể bỏ bớt các câu phụ và diễn đạt được ý tương tự một cách gọn gàng hơn. Tuy vậy, ngay cả trong các văn bản mang tính hàn lâm, chúng ta cũng không nên sử dụng „Nominalisierung“ một cách thái quá để tránh việc câu chúng ta viết ra rơi vào tình trạng phức tạp quá mức, gây khó khăn cho việc đọc hiểu. Nói tóm lại, danh từ hóa là một công cụ đa dụng, vừa giúp chúng ta đến gần hơn với văn phong tiếng Đức, vừa giúp chúng ta rèn luyện kĩ năng viết, lại vừa tạo cơ hội để chúng ta xử lý những hiện tượng ngữ pháp phức tạp hơn. Nhưng xét cho cùng, dù là động từ hay danh từ, hãy luôn nhớ rằng, ngôn ngữ chỉ là công cụ giao tiếp, chứ không phải phương tiện để làm màu. Một khi nội dung được truyền tải hợp lý và người tiếp nhận thông tin cảm thấy dễ hiểu, lúc đó mục tiêu của việc học ngôn ngữ đã đạt được, dù là với Verbalstil hay là Nominalstil! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ Bài viết có tham khảo nội dung từ bài viết của SpraKuKo với tiêu đề “Nominalisierung von Verben: Explizite Derivation und Konversion“. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự góp ý của Hoàng Trinh!