Như các bạn đã biết, B2 Goethe hiện tại đã trở thành một điều kiện gần như bắt buộc cho tất cả các bạn học viên muốn sang Đức, dù là để học đại học hay học nghề. Trong khi 3 kĩ năng nghe, đọc và viết đều có thể bằng cách này hay cách khác tự rèn luyện được, kĩ năng nói có vẻ đang trở thành một trở ngại lớn cho không ít bạn. Trong bài viết lần này, mình muốn chia sẻ cho các bạn đang còn gặp khó khăn với kĩ năng nói một vài lời khuyên từ cá nhân mình trong quá trình học và dạy tiếng Đức. Điều làm mình chán nản đầu tiên khi tiếp xúc các bạn học viên yếu kĩ năng nói đó là khả năng phát âm tương đối hạn chế so với trình độ B2. Đây sẽ là một điểm trừ cực lớn không chỉ cho kì thi, mà hơn tất cả, cho chính quá trình hòa nhập và thích nghi của các bạn ở Đức. Thật sự, việc nội dung đa dạng hay dùng từ phong phú sẽ không còn nhiều giá trị khi người nghe không nghe ra các bạn nói từ gì. Với đặc trưng bài thi, sẽ không ai dừng các bạn lại để sửa hay yêu cầu các bạn nói lại, mà những từ các bạn phát âm sai sẽ coi như được bỏ qua. Đối với những bạn có vốn từ tốt và biết cách diễn đạt, điều này thực sự rất đáng tiếc, giống như một người có rất rất nhiều tiền VND ở Đức vậy, giàu thì tuy có giàu thật, nhưng không thể tiêu được. Phát âm đúng chính là nơi đổi tiền cho các bạn. Vì vậy, nếu bạn vẫn còn đang phát âm sai, mình khuyên chân thành các bạn nên quay lại học lại phát âm cơ bản đến khi nào thành thục mới ôn thi B2! Trong số vô số lỗi phát âm mà các bạn mất phải, 3 lỗi sau đây được mình xếp vào nhóm “cực kì nghiêm trọng” và hi vọng các bạn sửa trước tiên: phát âm chữ “J”, phát âm chữ “z” và phân biệt “sch” với “z,ß”. Điều tiếp theo khiến mình không hài lòng, đó là rất nhiều bạn bị ám ảnh bởi khái niệm “từ vựng trình độ B2”. Như đã nói rất nhiều lần trước đây, trong các bài viết hay trong các videos, đối với mình không có từ vựng nào là từ vựng thuộc trình độ nào, mà chỉ có nội dung nói dễ hiểu, khoáng đạt, cách thể hiện thu hút người nghe và khả năng phản xạ trước những tình huống bất ngờ tốt. Nếu làm được 3 điều trên, dù có sử dụng từ vựng trình độ nào (dĩ nhiên trình độ nào thì quan trọng nhất vẫn phải dùng cho đúng), mình tin các bạn vẫn thừa sức đỗ kì thi, thậm chí với điểm cao. Dưới đây, mình sẽ trình bày cụ thể hơn lời khuyên để đạt được 3 điều mình nói phía trên: 1. Nội dung dễ hiểu Xin dừng ngay việc viết cả câu ra giấy rồi vào phòng thi đọc như học thuộc lòng! Các bạn hãy làm quen với việc xây dựng dàn ý theo dạng sơ đồ tư duy và viết các ý mà các bạn muốn trình bày theo dạng Stichpunkte. Sau đó, hãy cố gắng tập cách chuyển thể những ý đó thành một câu hoàn chỉnh. Ví dụ như sau: Thema: gesund leben; Alternative 1: Sport treiben Vorteil: fit werden -> mehr trinken, mehr Kalorien verbrennen. Sportarten: nicht unbedingt Fußball, Basketball -> Laufen, Joggen, Yoga -> häufig! „Wenn man Sport treibt, kann man fit werden, indem man mehr trinkt und mehr Kalorien verbrannt werden. Man muss nicht unbedingt bestimmte Sportarten spielen, wie z.B. Fußball oder Basketball. Laufen, Joggen oder Yoga sollten definitiv ausreichen, wenn man sie genug häufig treibt“. Như các bạn đã thấy, mình không hề dùng từ vựng „trình độ cao“, cũng như xây dựng câu đơn giản và dễ nói nhất có thể! 2. Cách thể hiện thu hút Điều quan trọng nhất với mình trong giao tiếp không phải là dọa người khác bằng những thứ trên trời hay phải nói cho thật là chuẩn không sai một dấu phẩy, mà là giữ người nghe lắng nghe bạn nói đến cuối cùng. Để làm được điều này, ngoài phong thái tự tin, không sợ sai, có một thứ mà đáng ra các bạn nên được dạy từ rất sớm, đó chính là Satzmelodie. Vì giới hạn bài viết, mình không thể trình bày quá cụ thể về cách cải thiện nó. Tuy vậy, mình vẫn có vài lời khuyên cho các bạn để thu hút người nghe trong bài thi nói: Thoải mái và chấp nhận lỗi sai nếu các bạn có nói sai, đừng dừng lại sửa lỗi nếu các bạn nói sai. Điều này vô tình làm ngắt mạch nghe và dễ làm người nghe rơi rớt thông tin. Quan tâm đến ngôn ngữ cơ thể của người nghe chứ đừng cố nói bất chấp những thứ các bạn đã chuẩn bị. Đừng „À“ và „Ờ“ quá nhiều khi nói! Nhiều bạn biết rất nhiều từ hay nhưng thật sự khi thuyết trình mình cảm nhận là các bạn nói 5 phút thì hết 2 phút là ậm ờ. Cách khắc phục thật ra rất đơn giản, hãy thay ậm ờ bằng khoảng lặng. Đâu có ai bắt các bạn phải nói nhanh và liên tục! Thậm chí, những khoảng lặng còn đóng luôn vai trò khơi gợi sự tò mò từ người nghe! 3. Phản xạ trước tình huống bất ngờ Đây có lẽ là điều gần như không hề có bạn nào muốn đối mặt, tuy vậy lại là một yếu tố mình đánh giá rất rất cao, vì các bạn đang thi nói, chứ không thi đọc. Các bạn cũng nên hiểu rằng, nơi các bạn cần tồn tại là nước Đức, chứ không phải là phòng thi. Nếu các bạn có đủ thời gian để ngồi viết ra thành câu và học thuộc những câu đấy từ 40, 50 cái đề bài, chẳng thà các bạn tập phản xạ trước những tình huống mà các bạn không ngờ tới bằng tiếng Đức mình thấy còn tốt hơn. Nếu có Partner luyện nói, đừng ngại ngần thử thách nhau bằng những tình huống như vậy nhé. Nhớ kĩ, cải thiện tốc độ phản ứng trước khi nghĩ đến việc cải thiện độ hay của từ vựng đấy nhé! Và lời khuyên cuối cùng của mình: Nếu các bạn thi đỗ kì thi, dù là kì thi nào, chưa chắc các bạn đã giỏi tiếng Đức. Nhưng nếu giỏi tiếng Đức, mình khẳng định các bạn sẽ đỗ mọi kì thi! Chúc các bạn thành công! Tác giả: Kobe Minh họa: Phương Thảo
Daily Archives: June 7, 2021
Tiếng Đức có 3 cách thức sử dụng động từ, bao gồm: Indikativ – thể thức khẳng định Imperativ – mệnh lệnh thức, và Konjunktiv – cách chia động từ để dùng khi muốn nói về một chuyện không có thật, một khả năng, một mong muốn… có thể xảy ra, hoặc khi đổi từ lời đối thoại sang câu kể (tiếng Đức gọi là Möglichkeitsform). Konjunktiv lại được chia làm 2 cách như sau: A. CÁCH DÙNG KONJUNKTIV 1 3 trợ động từ sein, haben và werden được chia trong Konjunktiv 1 như sau: sein – waren – gewesen Konjunktiv 1: ich sei du sei(e)st er/sie/es sei wie seien ihr sei(e)t sie/Sie seien haben – hatten – gehabt Konjunktiv 1: ich habe du habest er/sie/es habe wir haben ihr habet sie/Sie haben werden – wurden – geworden Konjunktiv 1: ich werde du werdest er/sie/es werde wir werden ihr werdet sie/Sie werden 1. Konjunktiv 1 thường dùng khi đổi lời hội thoại sang câu kể: Người kể lại dùng Konjunktiv 1 để thể hiện khoảng cách với người nói, với ý là “anh ta/cô ấy nói như vậy, nhưng tôi không chắc chắn” hoặc “tôi chỉ nhắc lại lời của họ thôi” – giống một cách khẳng định sự vô tư, khách quan của mình, dành quyền phán xét cho người nghe. Bằng cách này, người kể đồng thời cũng không cần đảm bảo độ chính xác của những câu nói được lặp lại. Ví dụ: Die Zeitung schreibt, die Theateraufführung sei ein Erfolg gewesen = Tờ báo viết rằng, vở diễn đã rất thành công. Der Reporter fragte den Erfinder, ob sein Gerät schon im Laden gekauft werden könne (đây là cách dùng Konjunktiv Passiv, là thể bị động, mình sẽ viết cụ thể hơn về chủ đề này vào dịp khác) = Phóng viên hỏi nhà phát minh, liệu mọi người đã có thể mua thiết bị của ông (sáng chế ra) ở ngoài cửa hiệu chưa? Ihre Kolleginnen behaupten, sie habe gemogelt = Các nữ đồng nghiệp của cô ấy khẳng định rằng, cô ta đã gian lận/lừa đảo. ***Để rõ ràng hơn thì khi cách chia động từ sang Konjunktiv 1 giống với Indikativ, ta sẽ dùng Konjunktiv 2 thay thế, ví dụ: Vì câu “Die Gegner glauben, sie haben die besseren Argumente” không rõ ràng, nên ta phải nói: Die Gegner glauben, sie hätten die besseren Argumente = Đối thủ tin (tưởng) rằng, họ nắm trong tay những lập luận hay ho hơn (ý ở đây là “nhưng chưa chắc đâu nhé/đừng tưởng bở nhé”!!) Manche Raucher meinen, sie dürften (đáng lẽ là “dürfen”) überall ihren Qualm verbreiten = Nhiều người hút thuốc cho rằng, họ được phép nhả khói khắp nơi (hay sao đó??!!) Viele glauben, die Politiker redeten zu viel und handelten zu wenig = Nhiều người cho là, các chính trị gia nói thì quá nhiều mà làm thì quá ít. 2. Konjunktiv 1 còn dùng trong các câu hướng dẫn, chỉ dẫn, huấn thị (trong công thức nấu ăn hay bài toán đố …), ví dụ: Man nehme 300g Mehl und füge 3 Eier hinzu … = Ta lấy 300g bột mỳ và thêm vào đó 3 quả trứng. Gegeben seien zwei Geraden … = Ta có hai đường thẳng… 3. Konjunktiv 1 cũng dùng khi so sánh hoặc thú nhận điều gì, ví dụ: Ich gehe morgen baden – und sei es noch so kalt = Ngày mai tôi quyết đi bơi/đi tắm – kể cả trời có lạnh mấy đi chăng nữa! Er tat, als ob er mit allem einverstanden sei (hoặc dùng Konjunktiv 2 là “wäre” thay cho “sei”) = Anh ta làm ra vẻ là đồng ý với tất cả (mọi người/mọi việc). B. CÁCH DÙNG KONJUNKTIV 2: 1. Konjunktiv 2 chỉ dùng trong 2 thời là Präteritum và Plusquamperfekt, và trong câu chủ động (Aktiv) nó sẽ được chia như sau: 1.1. Ở thời Präteritum >>> dùng gốc của động từ trong thời Präteritum và thêm đuôi -e. -est, -e, -en, -et, -en. Với các động từ bất quy tắc thì thay đổi cả nguyên âm, ví dụ: kaufen – kaufte – gekauft Konjunktiv 2: ich kaufte du kauftest er/sie/es kaufte wir kauften ihr kauftet sie/Sie kauften sprechen – sprach – gesprochen Konjunktiv 2: ich spräche du sprächest er/sie/es spräche wir sprächen ihr sprächet sie/Sie sprächen gehen – ging – gegangen Konjunktiv 2: ich ginge du gingest er/sie/es ginge wir gingen ihr ginget sie/Sie gingen 1.2. Ở thời Plusquamperfekt >>> chia 2 trợ động từ haben/sein theo nguyên tắc Konjunktiv 2 thời Präteritum và kèm theo Partizip 2 của động từ chính, ví dụ: kaufen – gekauft haben: ich hätte gekauft du hättest gekauft er/sie/es hätte gekauft wir hätten gekauft ihr hättet gekauft sie/Sie hätten gekauft gehen – gegangen sein: ich wäre gegangen du wär(e)st gegangen er/sie/es wäre gegangen wir wären gegangen ihr wär(e)t gegangen sie/Sie wären gegangen *** Cách dùng cho thể bị động (Passiv) sẽ được nhắc tới ở một bài viết khác! 2. Khi nào ta dùng Konjunktiv 2? Konjunktiv 2 thường dùng trong câu nói hàng ngày, đặc biệt là trong các câu đặt ĐIỀU KIỆN và là cách nói LỊCH SỰ, và hầu hết ta dùng Konjunktiv 2 khi ta muốn kể về một chuyện KHÔNG CÓ THẬT hoặc KHÔNG/CHƯA THỂ XẢY RA, ví dụ: 2.1. Khi tưởng tượng hoặc nói về một sự việc không thực tế: Ich wäre jetzt gern auf Hawaii (… ich bin es aber nicht) – Giá mà bây giờ tôi đang ở Hawaii … Alina hätte mir bei den Hausaufgaben geholfen (… sie war aber nicht da) – Đáng lẽ Alina đã giúp tôi làm bài tập về nhà … (nhưng cô bạn đã không đến) 2.2. Dùng Konjunktiv 2 trong cả câu chính và câu phụ khi nói về một điều kiện không thực tế. Tuy nhiên, nếu điều kiện này còn có thể đáp ứng thì dùng thời Präteritum, nhưng nếu điều kiện không có khả năng thực hiện nữa thì dùng Plusquamperfekt: Wenn er käme, könnten wir anfangen (… er kann noch kommen) – Nếu anh ấy đến, chúng ta có thể bắt đầu (… tuy không chắc chắn, nhưng anh ấy còn có thể đến) Wenn er gekommen wäre, hätten wir anfangen können – Giá mà anh ấy đến thì chúng ta đã có thể bắt đầu (điều kiện không thể thực hiện được nữa) 2.3. Khi nói đến một mong muốn/mơ ước không thực tế, mà một là tạm thời chưa thực hiện được (dùng Konjunktiv 2 Präteritum) hoặc không thể thực hiện được nữa (dùng Konjunktiv 2 Plusquamperfekt): Wäre ich doch schon 18 Jahre alt … – Giá mà tôi đã được 18 tuổi thì … (vẫn còn xảy ra trong tương lai) Hätten wir doch nur gewonnen … – Giá mà chúng ta trúng thưởng … (không còn khả năng thực thi vì cuộc thi đã kết thúc) 2.4. Khi đề nghị hoặc hỏi ai đó một cách lịch sự: Könnten Sie das bitte stehen lassen! – Ngài có thể cứ để nguyên nó đấy được không ạ! Dürfte ich noch was Tee haben? – Tôi có thể uống/lấy thêm trà được không? 3. Dùng “würde” thay cho Konjunktiv 2: Thay vì cách chia Konjunktiv 2 như đã nói ở trên, hầu như ta dùng “würde” để nói chuyện hàng ngày. “würde” chính là Konjunktiv 2 của trợ động từ “werden”. Ta dùng würde + động từ nguyên thể Präsens hoặc würde + động từ chia thời Perfekt, ví dụ: Wenn Jakob käme, könnten wir losfahren. – Nếu Jakob đến, chúng ta sẽ lên đường/khởi hành – Dùng würde, ta sẽ có: Wenn Jakob kommen würde, könnten wir losfahren. Ob sie den Weg alleine gefunden hätte, bezweifle ich – Tôi rất hoài nghi, liệu cô ấy có tự tìm được đường không – Dùng würde ta sẽ có: Ob sie den Weg alleine gefunden haben würde, bezweifle ich. ***Cả hai cách dùng vừa nêu trong phần 3 này đều không thay đổi nghĩa của câu kể/câu nói. Tuy nhiên, trong câu chuyện hàng ngày, chúng ta sẽ thấy là mọi người thường dùng “würde” nhiều hơn, còn Konjunktiv 2 lại dùng trong câu viết nhiều hơn, và một số các động từ đã cũ hoặc khó dùng, người ta cũng dùng Konjunktiv bằng cách thêm “würde”, ví dụ: ich führe – ich würde fahren ich verlöre – ich würde verlieren ich wüsche – ich würde waschen ***Nếu cách chia Konjunktiv 2 trùng hợp với thời Präteritum, ta cũng nên dùng “würde” để tránh xảy ra nhầm lẫn, ví dụ: Thay vì nói là: Ich kaufte mir ein neues Hemd, wenn ich eines brauchte – thì ta nói: Ich würde mir ein neues Hemd kaufen, wenn ich eines brauchen würde. Tác giả: Cẩm Chi