Trong bối cảnh virus Corona với các biến chủng khác nhau vẫn đang tiếp tục hoành hành tại Việt Nam, việc các cơ sở giáo dục phải tạm thời đóng cửa và cố gắng duy trì hoạt động bằng hình thức dạy online đang ngày càng phổ biến. Với tư cách là một người đã dạy online một thời gian khá dài, mình muốn mang đến một vài góc nhìn cá nhân như sau: Đầu tiên, mình muốn nhấn mạnh một điều: mình dạy online không phải vì dịch. Chuyện này quá dễ hiểu, mình ở Đức và hầu hết các bạn học viên đều còn ở Việt Nam, không dạy online chắc mình bay về Việt Nam mỗi cuối tuần quá 😀 Tuy dạy online đại bộ phận thời gian, nhưng thật ra mình đã bắt đầu sự nghiệp dạy tiếng Đức ở một lớp học offline nhỏ tại Hà Nội. Cảm giác đầu tiên khi phải tập cách truyền đạt kiến thức thông qua màn hình máy tính rõ ràng là không được thoải mái. Nó cũng giống như khi yêu xa vậy thôi. Dù công nghệ có kéo gần khoảng cách của chúng ta mức nào thì nó cũng không thể thay thế được cảm giác mặt đối mặt hay những hoạt động cần đến sự tương tác trực tiếp khác. Nhưng cũng lại tương tự khi yêu xa, dù cảm giác có thể không được chân thực bằng, nhưng dĩ nhiên là chả có đôi nào vì thế mà ngừng gọi điện thoại cho nhau cả. Trừ khi mình không còn thích dạy học nữa. Điều này thì chắc là không xảy ra rồi, và thế là mình tiếp tục dạy online. Rồi thì mình kéo thêm người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba tham gia dạy cùng. Và cứ thế, chúng mình đã từ lúc nào trở thành một đội ngũ dạy tiếng Đức online. Dạy bằng hình thức nào cũng vậy, sẽ luôn có cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Thiếu đi tương tác trực tiếp và những hoạt động kể trên, nhưng nhờ có các phần mềm hỗ trợ mà một đứa không biết vẽ và chữ cũng không lấy gì làm đẹp như mình bỗng dưng cảm thấy tự tin hẳn, cảm giác cứ như là dùng bảng thông minh vậy. Hơn thế nữa, dạy online giúp mình tiếp cận với những học viên từ khắp nơi trên thế giới, những người mà nếu mình mở lớp học tại cố định một địa điểm thì có lẽ sẽ rất khó để gặp được. Mình đánh giá rất cao điều này, vì với mình, dạy học không chỉ là một nghề để kiếm tiền, nó còn giúp mình khắc phục một vấn đề cố hữu mà mình gặp phải từ bé: sống khép kín và ngại tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau bóng rổ, dạy học chính là cây cầu thứ hai đưa mình đến với rất nhiều người mà trước đây mình không nghĩ mình có ngày sẽ quen và kết bạn với họ. Tuy ngoài dự tính nhưng giờ nó đã trở thành một lý do quan trọng khiến mình muốn tiếp tục theo đuổi việc dạy học, dù ngay thời điểm này thì việc làm song song khiến mình cảm thấy hơi quá sức. Tuy nhiên, dù là như vậy, khi thật sự có thể dành toàn bộ thời gian cho dạy học, mình chắc chắn sẽ ưu tiên việc dạy trực tiếp hơn. Thì rõ ràng mà, ai lại thích yêu đương qua màn hình máy tính bao giờ 😀 Vậy nhưng, mình không hề và cũng không có ý định phán xét việc yêu xa hay yêu gần của các cặp đôi. Ngày trước, hồi mình và vợ mình còn yêu xa, nhiều người cũng hay hỏi han việc yêu xa kiểu gì vậy. Thậm chí, không ít người còn cho rằng hai đứa này kiểu gì cũng chia tay. Đấy thế nhưng mà bọn mình có chia tay đâu, bọn mình còn đang đi du lịch với nhau trực tiếp đây này 😀 Dạy học cũng vậy. Dù là online hay offline, điểm mấu chốt vẫn là con người. Điều kiện cần là người dạy đủ kiến thức, đủ tâm huyết và đủ thời gian để có thể mang đến cho người học những gì tốt nhất. Điều kiện đủ là người học xác định rõ mục tiêu, hết lòng theo đuổi mục tiêu đó và hợp tác hết mình với người dạy. Có được điều đó, thì hình thức dạy học là gì, liệu có còn quá quan trọng? Lý do mình viết bài này không phải để cổ súy cho hình thức học online, dù chính bọn mình đang hoạt động với hình thức này. Mình hiểu tất cả những điểm yếu của hình thức này và cũng muốn trực tiếp đứng lớp nếu cơ hội đến. Thế nhưng, mình tôn trọng tất cả những người dạy học, dù dưới hình thức nào. Không bàn đến hay dở và đúng sai, chỉ riêng việc họ không từ bỏ khi khó khăn ập tới đã là điều làm mình cảm thấy khâm phục. Ngoài ra, như đã nói ở trên, điểm mấu chốt không phải hình thức dạy, mà với mình là con người, cả người dạy lẫn người học. Cũng giống như khi chúng ta đổ lỗi cho công nghệ đã khiến con em chúng ta trở nên lười vận động hay lười giao tiếp như thế nào, vấn đề vốn dĩ không nằm ở công nghệ, thứ sẽ luôn thay đổi theo thời gian và tạo ra những thói quen mới. Vấn đề về cơ bản, luôn nằm ở phía con người, điều khá khó khăn để nhận ra và cũng càng khó hơn để chấp nhận. Vì thế, các bạn thân mến, hãy bắt đầu học khi các bạn muốn học, sẵn sàng hết mình với việc học và khi các bạn cảm thấy đã tìm được một người dạy đủ khiến bạn tin tưởng. Nếu tất cả những điều đó đã có đủ và chỉ thị 16 vẫn còn hiệu lực, vậy thì hãy học online đi nhé! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Monthly Archives: September 2021
Trong ngôn ngữ học, việc hình thành một ý tưởng câu dựa trên 2 yếu tố: những thứ mà ta đã biết (Thema) và những thông tin, ý kiến mới mà ta thêm vào (Rhema). “Thema” của một câu bao gồm những thông tin mà tất cả chúng ta đều biết, đã được nhắc đến phía trước hoặc được làm rõ thông qua văn cảnh khi viết. Do vậy, chúng có vai trò định vị cho câu, để làm rõ và khiến người đọc hiểu rằng thông tin chính xuất hiện trong điều kiện, hoàn cảnh như thế nào. “Rhema”, ngược lại, chính là linh hồn của câu. Điều này thật ra khá dễ hiểu vì chúng ta không thể viết một câu mà không mang lại bất kì thông tin nào cho người đọc cả. Chúng ta cùng tham khảo một vài ví dụ sau đây: In Hanoi (Thema) ist es seit Tagen sehr warm (Rhema). Ich (Thema) habe die Prüfung sehr gut bestanden (Rhema). Es war einmal ein König (Rhema). Er (Thema) hatte drei Töchter (Rhema). Để trình bày một luận điểm hay một vấn đề, chúng ta có một vài cấu trúc khác nhau sử dụng Thema & Rhema (hay còn gọi là Thema-Rhema-Struktur hay Informationsstruktur). 1. Lineare Thema-Rhema-Struktur Cấu trúc này là cấu trúc cơ bản nhất và thường được dùng trong các cuộc hội thoại thân mật. Ở đây, một Rhema sẽ chịu trách nhiệm mở đầu vấn đề bằng câu đầu tiên. Sau đó Rhema này sẽ đóng vai trò là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Đây là cấu trúc hay gặp trong các cuộc hội thoại “Smalltalk” hay trong các văn bản không đặt nặng tính hình thức. Peter ist ziemlich erkältet (Rhema). Seine Erkältung (Thema 1) ist aber nicht bedenklich (Rhema 1) Marie ist die Freundin von Renate (Rhema). Renate (Thema 1) ist die Kollegin meiner Mutter (Rhema 1). Meine Mutter (Thema 2) heißt auch Renate (Rhema 2). Dabei (Thema 3) ist Renate kein häufiger Name (Rhema 3),… 2. Durchlaufendes Thema Cấu trúc này đưa ra nhiều Rhema khác nhau cho cùng một Thema. Nói cách khác, Thema của câu đầu tiên cũng chính là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Do đó, nó phù hợp khi bạn muốn miêu tả về một sự việc hay vấn đề nào đó. Một công cụ hữu ích khi sử dụng cấu trúc này để viết chính là việc sử dụng MindMap. Peter (Thema) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Er (Thema) kann trotzdem zur Arbeit gehen (Rhema 2). Kupfer (Thema) ist ein chemisches Element mit dem Elementsymbol “Cu” und der Ordnungszahl 29 (Rhema 1). Es (Thema) ist ein Übergangsmetall (Rhema 2), im Periodensystem steht es (Thema) in der 4. Periode und der 1. Nebengruppe oder Kupfergruppe (Rhema 3). Một trường hợp đặc biệt có thể kể tới là “Progression mit abgeleiteten Themen”. Ở đây, các Rhema khác nhau của 1 Thema sẽ được sắp xếp và đánh dấu rõ ràng để tiện cho việc theo dõi. Ví dụ cụ thể là phần mục lục của tất cả các cuốn sách. 3. Gespaltenes Rhema Ở hình thức này, trái ngược với “durchlaufendes Thema”, một Rhema sẽ được chia thành nhiều phần nhỏ và được xem xét trong các Thema khác nhau. Thông qua việc phân tích trong các Thema đó, các phần nhỏ của Rhema sẽ được xem xét một cách kĩ càng và đa chiều, đồng thời tạo nên một Rhema tổng hợp có sức thuyết phục hơn. Cấu trúc này được sử dụng trong các cuộc tranh luận hay phân tích mặt lợi – mặt hại của một vấn đề. Die Sprachwissenschaftliche Forschung hat sich bei blinden Kindern vor allem mit den Auswirkungen der Behinderung auf Themenwahl und nonverbales Verhalten konzentriert (Rhema). Die wenigen Untersuchungen lassen vermuten, dass in Gesprächen mit blinden Kindern Themen (Thema 1) überwiegen, die sich eher auf das Kind, als auf dessen Umgebung beziehen. In vielen Fällen wird das nonverbale Verhalten (Thema 2) durch Blindismen geprägt. 4. Thematischer Sprung Ở hình thức này, Rhema và Thema của các câu liên tiếp sẽ hoàn toàn khác nhau do những thông tin được đánh giá là “ai cũng hiểu” sẽ được bỏ qua. Do vậy, hình thức này sẽ chỉ thích hợp cho việc trao đổi thông tin giữa những người có cùng chuyên môn về một lĩnh vực nào đó. Peter (Thema 1) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Die Arbeitsstelle (Thema 2) ist schlecht beheizt (Rhema 2). Tác giả: Kobe
Đối với tất cả những bạn đã sang và sống một thời gian ở nước ngoài, sau đó đã quen và hiểu được văn hóa, cuộc sống, con người bản địa, chắc hẳn các bạn đều cảm thấy rất tuyệt. Bạn có những người bạn bản địa và tham gia vào các hoạt động thường nhật một cách tự tin bằng tiếng bản địa, như mua sắm, đặt đồ ăn hay làm việc. Bạn không hề còn cảm thấy bạn là một “người ngoại đạo” như những tháng đầu tiên ở đất nước mới nữa. Thật sự là bạn sẽ cảm thấy cực kì ổn cho đến khi một người bạn đến và hỏi bạn rằng: “Cậu sử dụng thứ tiếng này trôi chảy chứ?”. Chắc hẳn bạn sẽ khựng lại một giây và tự hỏi bản thân rằng: “Mình làm được điều đó chưa nhỉ?”. Rất khó để có một thước đo tiêu chuẩn định nghĩa rằng, một người có thực sự trôi chảy với một thứ tiếng hay không. Nhiều người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn đã thuộc nằm lòng tất cả các từ có trong từ điển, có thể diễn đạt 100% tất cả những gì bản thân muốn mà không mắc bất kì lỗi sai nào dù là nhỏ nhất hay có thể nói mà không cần tốn chút thời gian nào suy nghĩ để tìm ra từ cần thiết. Cũng không ít người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn vượt qua những kì thi chuẩn hóa với số điểm cao chót vót. Nhưng nếu đó là thước đo của việc sử dụng trôi chảy một ngoại ngữ, bạn có chắc là bạn có thể làm được điều đó với tiếng mẹ đẻ của bạn hay không? Nói ví dụ, rõ ràng chúng ta cực kì trôi chảy tiếng Việt, nhưng chúng ta có thể nói mà không cần suy nghĩ chọn từ hay nói mà không mắc bất kì lỗi nhỏ nào hay không? Chúng ta trôi chảy tiếng Việt và chúng ta khẳng định bản thân sẽ vượt qua kì thi C2 tiếng Việt một cách dễ dàng chứ? Có lẽ là chưa chắc… Thay vào đó, chúng ta thường cho rằng, việc trôi chảy một ngoại ngữ gắn liền với tốc độ nói, khả năng diễn đạt đơn giản dễ hiểu và đương nhiên là liền mạch nữa. Quan trọng không kém là ta có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau và với nhiều đối tượng khác nhau. Thế tóm lại, thật ra ta nên dựa vào điều gì để đánh giá về mức độ trôi chảy khi sử dụng một ngôn ngữ? Sau đây, mình sẽ giới thiệu tới các bạn 7 dấu hiệu cho thấy bạn đang sử dụng ngoại ngữ một cách trôi chảy. 1. Người bản xứ không còn thay đổi cách họ nói chuyện với bạn Cũng tương tự như khi chúng ta là người Việt và nói chuyện với một người bạn châu Âu đang học tiếng Việt. Rõ ràng, chúng ta nhận ra rất nhanh người đối diện có thật sự lưu loát tiếng Việt hay không. Nếu không, xu hướng của chúng ta sẽ là nói chậm hẳn lại để người đối diện có thể hiểu được và theo kịp nội dung cuộc nói chuyện. Điều tương tự sẽ xảy ra khi chúng ta sang một nước khác. Bạn đơn giản là không thể che mắt một người bạn xứ về trình độ tiếng của mình nếu bạn và họ nói chuyện tối thiểu là 5 phút. Vì vậy, nếu cuộc nói chuyện kéo dài và bạn nhận ra, người bản xứ không hề nói chậm lại, đó là chỉ dấu đầu tiên cho thấy: bạn đang sử dụng ngôn ngữ của họ trôi chảy rồi đấy! 2. Bạn có thể nghe lỏm được các cuộc hội thoại Một dấu hiệu khác là khi bạn đi đến quán Cafe hay ngồi ăn trong một nhà hàng, lắng nghe những người xung quanh nói chuyện với nhau và cảm thấy đó không còn chỉ là tiếng ồn như động cơ máy bay nữa. Bạn thật sự có thể hiểu được họ đang nói về chủ đề gì cũng như cảm xúc của họ ra sao khi nói về chủ đề đó. Đây là một bước tiến cực kì lớn, bởi vì tốc độ nói chuyện của 2 người bản xứ với nhau thường rất nhanh và họ cũng sử dụng nhiều những từ ngữ không chính thống hơn. Ngoài ra, bạn có thể hiểu người khác nói gì mà không cần nhìn vào mắt hay chuyển động cơ thể của họ để phán đoán ý tứ. Đây là một trong những chỉ dấu mình cho là đáng giá nhất. 3. Bạn khám phá ra một thế giới mới của sự hài hước Chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng: ngay cả việc trở nên hài hước bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình cũng là một điều cực kì khó khăn. Ta cần phải biết rất nhiều từ lóng, hiểu rất sâu về ngôn ngữ, về văn hóa, phong tục tập quán hay nắm được các trào lưu thịnh hành,… Và bạn hãy thử tưởng tượng, bạn làm được điều đó với một ngôn ngữ khác! Bạn xem Standup-Comedy và không cần bạn bè giải thích lại. Bạn có thể đi chơi cùng bạn bè người bản xứ và có thể nói gì đó khiến tất cả cùng cười. Nếu làm được điều này, bạn hoàn toàn có thể tự hào về bản thân cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ của mình. 4. Bạn không còn sợ đi khám nữa Khi bạn còn chưa tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình, chắc hẳn suy nghĩ về việc đi gặp bác sĩ là một trong những điều khiến bạn sợ nhất. Không hẳn là bạn sợ đau, mà là bạn sợ bạn không thể diễn tả cho bác sĩ hiểu bạn đang gặp vấn đề gì. Hoặc bạn sợ bác sĩ giải thích cho bạn vài điều và bạn không hiểu nổi. Hoặc là vì bất đồng ngôn ngữ mà bác sĩ kê nhầm thuốc cho bạn. Nếu đến một ngày, bạn không còn sợ điều này nữa, đó cũng là một dấu hiệu cho thấy bạn đang dần trở nên trôi chảy hơn với ngoại ngữ. 5. Bạn biết cách sử dụng “bad words” Những người bản xứ thường cảm thấy khá hào hứng mỗi khi họ có cơ hội dạy cho các bạn nước ngoài về những từ bậy bạ ở nước mình (thừa nhận đi, các bạn cũng thấy thế với tiếng Việt đúng không?). Ban đầu, dĩ nhiên bạn cảm thấy khá lạ lẫm. Nhưng dần dần, bạn nhận ra những văn cảnh cụ thể để sử dụng những từ này mà không gây phản cảm, mà trái lại, còn làm người nghe cảm thấy hứng thú với câu chuyện của bạn hơn. Nếu làm được điều này, ngay cả khi là một người không bao giờ chửi bới, bạn vẫn có thể thể hiện rằng, bạn đang trên con đường trở nên trôi chảy với ngoại ngữ mà bạn sử dụng. 6. Bạn nắm được nội dung mà không quan tâm đến ngôn ngữ Mình nghĩ điều này chắc chắn là không thể khi các bạn mới bắt đầu với một ngoại ngữ. Nhưng nếu bây giờ bạn đang ngồi đâu đó, đọc một bài báo hay nghe một bản tin và hiểu được nội dung của nó. Sau đó, bạn suy nghĩ lại và chợt nhận ra, bạn không biết rằng nội dung bạn vừa gặp được truyền tải bằng thứ tiếng nào. Đó là một khoảnh khắc tuyệt vời và điều đó chứng minh rằng, bạn bắt đầu có khả năng chuyển đổi linh hoạt giữa tiếng mẹ đẻ và một ngôn ngữ khác, điều mà sẽ không chỉ giúp bạn cho thứ tiếng đó, mà còn cho cả những ngôn ngữ mới mà bạn sẽ học sau này. 7. Bạn biết mình vừa mắc lỗi gì Tất cả những người, dù đã sử dụng thành thạo một ngôn ngữ cỡ nào, họ vẫn sẽ mắc lỗi. Điểm khác biệt so với những người mới học là ở chỗ, họ biết rõ họ mắc lỗi gì và như thế nào. Và nếu là một người trôi chảy với thứ tiếng đó, bạn sẽ ngày càng sửa lỗi của bản thân thường xuyên hơn và thậm chí là ngay lập tức. Vì thế, hãy tự hào nếu bạn có thể làm được điều này, vì đây là kĩ năng cách rất rất xa một người mới học ngôn ngữ hay thậm chí đang ở trình độ trung cấp của ngôn ngữ đó. Tác giả: Kobe
Những cơ hội đào tạo mở rộng kỹ năng tại Đức là vô cùng đa dạng. Những người quan tâm có rất nhiều sự lựa chọn, không chỉ ở chủ đề, mà còn ở những loại hình đào tạo khác nhau. Hiện nay, điều quan trọng hơn hết là những thông tin chi tiết để không gì có thể ngăn cản bạn khỏi những hoạt động cá nhân nhằm nâng cao kỹ năng. Ở bài viết sau đây, chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn những hình thức đào tạo mở rộng chuyên môn quan trọng nhất: Tự học Hình thức học tập này có những ưu và nhược điểm, vì người học sẽ tự quyết định thời gian, mức độ tập trung hay phương tiện nào sẽ giúp người học nắm được nội dung và đạt được những mục tiêu học tập mong muốn. Người học có thể học với một nhóm người, có thể tự đưa ra những tiêu chí để đánh giá hiệu suất công việc, hay có thể tự quyết định học với công cụ nào. Những công cụ đó có thể bao gồm các tài liệu giảng dạy thông thường cũng như học trực tuyến hoặc một sự giúp đỡ chuyên nghiệp, ví dụ như từ một giáo viên dạy riêng. Sự linh hoạt chính là yếu tố khiến việc tự học trở nên hấp dẫn hơn. Mặt khác, việc đó cũng ẩn chứa nguy cơ không theo đuổi mục tiêu một cách kiên định nếu không có áp lực từ bên thứ 3. Việc luôn luôn phải tự động viên bản thân rằng tất cả mục tiêu sẽ hoàn thành quả thực khó khăn, và việc này trở nên dễ dàng hơn khi làm việc trong cùng một nhóm, trong một khóa học, hay với nhiều người khác hơn là làm “đơn thương độc mã”. Những người thực sự lưu ý đến khía cạnh này và có thể đảm bảo luôn có khả năng tự động viên bản thân có thể thực hành việc tự học. Nếu bạn không chắc chắn mình có thể làm thế, hãy thử các hình thức học sau đây. Các khóa học/ hội thảo/ thuyết trình Có lẽ hình thức đào tạo mở rộng kỹ năng phổ biến nhất là phương pháp học truyền thống thông qua một buổi thuyết trình, hội thảo hay một khóa học. Việc rất nhiều cơ sở đào tạo tạo điều kiện cho những hình thức trên không nhất thiết sẽ khiến sự lựa chọn của chúng ta trở nên dễ dàng hơn. Tuy vậy, trên một phương diện khác, nó lại mở ra rất nhiều con đường giúp bạn đạt được mục tiêu. Bởi vậy những ai sẵn sàng học hỏi có thể tham gia các khóa học giáo dục dành cho người lớn, tham gia các khóa học từ các cơ sở đào tạo khác nhau, tham gia các hội thảo cuối tuần, nghe thuyết trình hoặc học tại một trường đại học. Hình thức học truyền thống là phương pháp tốt nhất đối với nhiều người để học một thứ gì đó, vì bạn học theo nhóm và có thể trao đổi, so sánh với những người cùng tham gia. E-Learning Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, các nhà cung cấp hình thức đào tạo phát triển chuyên môn đã liên tục mở ra rất nhiều lĩnh vực kinh doanh mới. Học trực tuyến (E-Learning) là một lĩnh vực tương đối non trẻ. E-learning có nghĩa là “việc học tập được hỗ trợ bởi thiết bị điện tử” (nghĩa đen: “học trực tuyến”). Người học được truyền tải nội dung bài giảng thông qua các phương tiện điện tử và/hoặc kỹ thuật số cho việc trình chiếu hoặc sắp xếp tài liệu hay cho việc hỗ trợ tương tác. E-learning có thể được sử dụng để hỗ trợ các phương pháp giảng dạy khác hoặc nó có thể được sử dụng một mình. Hình thức này rất được yêu thích bởi các bạn trẻ, vì nhiều người trong số họ sử dụng máy tính nhiều giờ mỗi ngày. Truyền thông đa phương tiện, tương tác và học tập với các phương tiện truyền thông hiện đại đang trên đà phát triển và chắc chắn sẽ đóng một vai trò lớn trong tương lai. Học từ xa Học từ xa được định nghĩa là ‘’Việc truyền đạt những kiến thức và kĩ năng, trong đó người dạy và người học hoàn toàn hoặc chủ yếu cách xa nhau về mặt không gian và giáo viên hay người giám sát sẽ theo dõi mức độ hiệu quả của việc học’’. Chủ yếu tách biệt về mặt không gian có nghĩa là chắc chắn sẽ có những nhà cung cấp dịch vụ giảng dạy từ xa nhưng vẫn cung cấp cả những khóa học trực tiếp. Thuận lợi cho người học chính là việc tự quản lý thời gian rảnh của bản thân. Các cơ sở giảng dạy từ xa cung cấp các tài liệu như bản in sách giáo khoa, tài liệu âm thanh hoặc video, tài liệu trên nền tảng máy tính hoặc web và các bài tập được gửi qua đường bưu điện. Người quan tâm có thể học nghề hay học văn hóa tại các trường học từ xa và cũng có thể đăng kí tham gia nhiều hoạt động cải thiện kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng chuyên sâu. Training on/near/off the job “Training on the job” có nghĩa là nhân viên tham gia các khóa đào tạo phát triển nghiệp vụ, chuyên môn tại nơi mà họ làm việc. Hình thức này rất linh hoạt về mặt thời gian và có thuận lợi là nhân viên được đào tạo ở nơi quen thuộc với họ. Khi “Training near the job”, các hoạt động đào tạo sẽ diễn ra tại công ty, nhưng không phải trực tiếp tại nơi làm việc. Ví dụ khóa đào tạo các kĩ năng như hùng biện sẽ được tổ chức tại phòng hội thảo của các doanh nghiệp lớn. Với “Training off the job”, nhân viên sẽ được học bên ngoài công ty, ví dụ như tại các phòng của những người cung cấp khóa học đào tạo mở rộng kĩ năng. Các chuyến đi mở rộng chuyên môn và học tiếng ở nước ngoài Các hình thức đào tạo kĩ năng ở nước ngoài rất được yêu thích. Thật vậy, người học có thể vừa học được những thứ hữu ích mà vừa có cảm giác dễ chịu và được lợi từ những ấn tượng về một đất nước hoàn toàn xa lạ ngoài việc đào tạo chuyên môn nghề nghiệp. Chuyển dịch: Huyền Yến Minh họa: Huyền Kiu Bài viết gốc với tiêu đề “Formen der Weiterbildung” được đăng trên https://www.weiterbildung-ratgeber.de/formen-der-weiterbildung/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Das Angebot auf dem deutschen Weiterbildungsmarkt ist enorm vielfältig. Nicht nur thematisch, sondern auch, was die unterschiedlichen Arten der Fortbildung betrifft, haben Interessenten eine enorm große Auswahl. Umso wichtiger sind jetzt eingehende Informationen, damit Sie auch nichts mehr von Ihrer individuellen Weiterbildungsmaßnahme abhält. Auf diesen Seiten stellen wir Ihnen die wichtigsten Formen von Weiterbildungsmaßnahmen vor: Selbst organisiertes Lernen Diese Form der Weiterbildung hat Vor- und Nachteile, da der Lernende selbst bestimmt, wann, wie intensiv und mit welchen Mitteln er seine Inhalte und Lernziele erreichen möchte. Er kann allein oder mit anderen gemeinsam lernen, er kann sich selbst Kriterien der Leistungsbeurteilung erarbeiten und er kann entscheiden, mit welchen Mitteln er lernt. Dazu können gängige Unterrichtsmaterialien ebenso gehören wie das E-Learning oder auch das Einschalten professioneller Hilfe, zum Beispiel durch einen privaten Lehrer. Es ist die Flexibilität, die das selbstorganisierte Lernen so attraktiv macht. Andererseits birgt es auch die Gefahr, dass man sein Lernziel ohne den Druck Dritter nicht konsequent genug verfolgt. Sich selbst immer wieder so zu motivieren, dass alle Vorhaben gelingen, ist schwierig und fällt in der Gruppe, in Kursen, mit anderen Lernenden leichter als als „Einzelkämpfer“. Wer diesen Aspekt berücksichtigt und sicher ist, sich selbst immer wieder allein motivieren zu können, kann das selbstorganisierte Lernen praktizieren. Wer da unsicher ist, sollte auf eine der folgenden Formen zurückgreifen. Kurse / Seminare / Vorträge Die vermutlich häufigste Form der Weiterbildung ist die klassische Lernmethode in einem Vortrag, Seminar oder einem Kurs. Dass zahlreiche Institute diese Möglichkeit anbieten, erleichtert die Auswahl nicht unbedingt, eröffnet aber andererseits unheimlich viel Wege, sein Ziel zu erreichen. So können Lernwillige Volkshochschulkurse belegen, Kurse bei alternativen Anbietern, Wochenend-Seminare besuchen, sich Vorträge anhören oder an der Universität studieren. Die klassische Form ist für viele Menschen die beste Methode, etwas zu lernen, weil man in der Gruppe lernt und sich mit anderen Teilnehmern austauschen und vergleichen kann. E-Learning Mit der Entwicklung neuer Kommunikationswege erschließen sich auch die Anbieter von Weiterbildungsmaßnahmen immer neue Geschäftsfelder. Ein relativ junges Gebiet ist das sogenannte E-Learning. E-Learning steht für „elektronisch unterstütztes Lernen“ (wörtlich: „elektronisches Lernen“). Mit Hilfe elektronischer und/oder digitaler Medien für die Präsentation und Distribution von Materialien und zur Unterstützung der Kommunikation werden den Lernenden Inhalte vermittelt. Das E-Learning kann flankierend zur Unterstützung anderer Lehrmethoden oder auch ausschließlich eingesetzt werden. Gerade bei jüngeren Menschen ist es beliebt, weil viele von ihnen den Computer eh täglich mehrere Stunden nutzen. Multimedialität, Interaktivität und Lernen mit modernen Kommunikationsmitteln sind auf dem Vormarsch und werden in Zukunft sicher eine noch größere Rolle spielen. Fernunterricht Fernunterricht wird definiert als „Vermittlung von Kenntnissen und Fähigkeiten, bei der der Lehrende und der Lernende ausschließlich oder überwiegend räumlich getrennt sind und der Lehrende oder sein Beauftragter den Lernerfolg überwachen.“ Überwiegend räumlich getrennt bedeutet, dass es durchaus auch Anbieter gibt, die per Fernunterricht lehren, bei denen es aber auch Präsenzseminare- oder Kurse gibt. Der Vorteil für die Lernenden ist die individuelle, freie Zeiteinteilung. Fernschulen bieten als Materialien gedruckte Lehrhefte, audio- oder videobasierte Einheiten, computer- oder web-basierte Einheiten und per Post übermittelte Aufgaben an. Interessenten können an Fernschulen unter anderem Berufsabschlüsse und Bildungsabschlüsse machen, sie können aber auch zahlreiche berufliche Qualifikationsmaßnahmen und Spezialisierungen belegen. Training on/near/off the job „Training on the job“ bedeutet, dass Arbeitnehmer am Arbeitsplatz in dem Unternehmen, in dem sie beschäftigt sind, eine Weiterbildungsmaßnahme absolvieren. Das kann zeitlich flexibel gestaltet werden und hat den Vorteil, dass der Arbeitnehmer sich an gewohnter Stelle für den Job fortbildet. Bei „Training near the job“ findet die Weiterbildungsmaßnahme zwar im Unternehmen statt, aber nicht direkt am Arbeitsplatz. So gibt es zum Beispiel Weiterbildungsmaßnahmen wie Rhetorik, die in größeren Unternehmen in einem Seminarraum in der Firma stattfinden. Beim „Training off the job“ lernen Arbeitnehmer außerhalb des Unternehmens, zum Beispiel in den Räumen eines Anbieters von Weiterbildungsmaßnahmen. Weiterbildung und Sprachreisen im AuslandSehr beliebt sind Weiterbildungsmaßnahmen im Ausland. Zu Recht, können die Lernenden doch dort oft das Nützliche mit dem Angenehmen verbinden und neben der beruflichen Fortbildung von den Eindrücken eines fremden Landes profitieren.