Vào vài ngày trước lễ Giao Thừa, người Đức (và người dân ở các nước sử dụng tiếng Đức như Áo, Thụy Sỹ) thường chúc nhau một câu là: – Wir wünschen euch einen guten Rutsch ins Neue Jahr!– Rutsch/Rutscht gut rein ins Neue Jahr!– Guten Rutsch! Đây là một câu chúc được phổ biến tại Đức từ khoảng năm 1900 đến nay. Tuy nhiên, động từ “rutschen” hay danh từ “Rutsch” nguyên bản lại không có nghĩa là “trượt” hay “lướt”, mà có hai cách giải thích cho xuất xứ của câu thành ngữ này. Một là có thể nó bắt nguồn từ từ Do Thái cổ “Rosch” với nghĩa “đầu tiên/sự khởi đầu” (tiếng Đức là Kopf hoặc Anfang) để chúc cho một khởi đầu may mắn. Mặt khác, nghĩa của nó có thể là “chuyến đi” (Reise/Fahrt) để chúc một chuyến đi vui vẻ bước sang Năm Mới. Vì vậy, từ năm 1820, người ta đã thường chúc nhau “guten (glücklichen) Rutsch“ (nghĩa là „gute Reise“), hầu như để ám chỉ một chuyến đi ngắn bằng xe trượt tuyết/xe trượt băng (có ngựa kéo), sau này thì ngụ ý nói về một chuyến đi bằng tàu hỏa. Dù thế nào thì khi nói đến từ “rutschen”, chắc chắn ai trong chúng ta cũng sẽ nghĩ ngay đến hành động trượt hoặc lướt một cách nhẹ nhàng, êm ái, (hi vọng) không gặp nhiều chướng ngại vật … – đặc biệt là vào giây phút chúng ta đón chào thời khắc chuyển giao giữa Năm Cũ và Năm Mới, phải không các bạn?? Một số cách chúc mừng năm mới trong tiếng Đức: 1. Alle Jahre wieder, Weihnachten und Silvester.Wir stehen da und überlegen uns, was werden wir im nächsten Jahr ändern.Vorsätze, Gedanken werden hin und her geschoben.Wenn wir aber ehrlich sind, kommen viele Vorsätze alle Jahre wieder.Dabei ist im Leben nur Gesundheit und Glück wichtig.Der Rest kommt, wann es kommen soll.Einen guten Rutsch ins neue Jahr! 2. Ich wünsche einen schönen Neustart.Beginnen soll es mit einem schönen Feuerwerk.Gesundheit und Liebe soll an Deiner Seite stehen,dazu von mir viel Glück! 3. Das alte Jahr ist jetzt bald futsch, drum wünschen wir einen guten Rutsch. Glück soll uns das neue Jahr gestalten und wir bleiben hoffentlich die alten! 4. Lasst die Korken knallen. Lasst die Sektgläser klingen. Lasst uns nun das neue Jahr beginnen. Bleibt fröhlich und gesund: 365 Tage, das sind 8760 Stund. 5. Für das Neue Jahr wünsche ich dir soviel Glück, wie der Regen Tropfen hat, soviel Liebe wie die Sonne Strahlen hat und soviel Gutes wie der Regenbogen Farben hat! 6. Ich bin die kleine Silvestermaus,steh leider nicht vor deinem Haus.Drum schick ich dir aus weiter Ferne,eine Hand voll Zaubersterne.Alles Gute im 2016! 7. Wenige Stunden sind es nur zum Neuen Jahr. Einen guten Rutsch, viel Erfolg und Gesundheit im 2016. Das wünsch ich dir/euch von Herzen! 8. Sonne, Mond und Sterne,alles ist weit in der Ferne.Doch was ich wünsche, das ist ganz nah,ein glückliches, gesundes Neues Jahr! 9. Was wädelt so spät durch Nacht und Wind?Es ist ein Schwein, das lacht und singt!Es wünscht dir – ist ja klar: Viel Glück und Liebe im Neuen Jahr! 10. Am Himmel leuchten die Sterne so klar,ich wünsch dir ein frohes Fest und ein gutes Neues Jahr!… Tác giả: Cẩm Chi
Monthly Archives: December 2021
Điều này có vẻ ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều người mỗi lần băn khoăn về việc chọn trường, chọn ngành trước khi đi du học. Trường A có xếp hạng cao hơn trường B không? Trường C có phải trường tốt nhất bang không? Trường D có phải trường trong top thế giới không? Khối 9 trường đại học kĩ thuật hàng đầu tại Đức (TU9) có phải cũng danh giá như Ivy League ở Mỹ không?… Khá nhiều bạn trẻ thật sự chọn cho mình trường để theo học tại Đức dựa vào Hochschulranking (Bảng xếp hạng các trường đại học) và hi vọng thông qua đó có thể có được những cơ hội thăng tiến tốt hơn trong sự nghiệp. Câu hỏi đặt ra là: điều này có thật sự đáng tin hay không? Trước khi đưa ra nhận xét chủ quan, tại sao chúng ta không tham khảo trực tiếp ý kiến từ những người có trách nhiệm với việc tuyển dụng nhân sự cho các công ty, tập đoàn khác nhau tại Đức nhỉ? Dưới đây là các câu trả lời cho câu hỏi: “Bạn nghĩ gì nếu sinh viên chọn trường đại học dựa vào Hochschulranking?” 1. Meral Eichwald, Human Resources, Stryker Osteosynthesis “Bất kì hình thức nào của việc cân nhắc những lựa chọn trường đại học hoặc nội dung khóa học đều có ý nghĩa. Tuy nhiên, bạn cũng có thể tự nâng hạng việc học của mình tại các trường đại học có thứ hạng thấp hơn bằng cách sớm tiếp cận với thực tế thông qua việc làm thực tập, những công việc tạm thời hay các khóa học bổ sung, lấp đầy các khoảng trống kiến thức và qua đó tự mình định hình việc mình cần học những kiến thức gì khi còn đi học”. 2. Alfred Lukasczyk, Personalmarketing, Evonik Industries AG “Tôi cho rằng việc các sinh viên tương lai xem xét kĩ lưỡng việc chọn trường đại học là rất quan trọng. Thành công lâu dài chỉ có thể đạt được ở nơi mà tôi cảm thấy thoải mái mà thôi. Bảng xếp hạng trường đại học rõ ràng có thể được xem là một yếu tố định hướng. Tuy vậy, ta phải luôn đặt ra một câu hỏi nghiêm túc cho bảng xếp hạng này: Những tiêu chí nào đã được để ý tới? Trường nào đã tham gia vào khảo sát để làm ra bảng xếp hạng này? Để có thể làm rõ những câu hỏi này, điều đặc biệt quan trọng là phải trả lời được rằng: Điều gì ở một trường đại học là quan trọng nhất với tôi?” 3. Ass. Jur. Nathalie Schröder. Geschäftsführung, GMConsultingspartner “Về cơ bản, tôi ủng hộ việc đánh giá các trường đại học cũng như công khai các đánh giá này. Một hình thức cạnh tranh công khai như vậy sẽ giúp tạo ra động lực thúc đẩy các trường liên tục cải thiện chất lượng giáo dục cũng như cung cấp cho tất cả những người quan tâm một cái nhìn tổng quan về “Tình hình thị trường”. Tuy nhiên, cá nhân tôi không coi việc lựa chọn trường đại học dựa trên xếp hạng là việc nhất định phải làm. Bản thân một trường đại học có thể được đánh giá tương đối thấp – nhưng một ngành học cụ thể nào đó tại trường nhờ vào đội ngũ giảng viên cực kì tận tâm và nội dung học sáng tạo có thể trở thành một “Lựa chọn tuyệt vời” cho các bạn”. 4. Sehnaz Özden, Continental Recruiting Center weltweit, Continental AG “Dĩ nhiên là một bảng xếp hạng trên mọi góc độ đều có thể được coi là kim chỉ nam và cho thấy những điểm quan trọng nhất của các trường đại học. Tuy vậy, mỗi người nên tự quyết định xem họ có thật sự muốn dựa theo các tiêu chí của bảng xếp hạng đó hay không”. 5. Tina Wemer, HR und Recruiting, INVENSITY GmbH “Bạn không nên để mình bị ảnh hưởng bởi thứ hạng của các trường đại học khi chọn trường. Điều thường xảy ra là những người chịu trách nhiệm tuyển dụng nhân sự chưa bao giờ nhìn thấy những trường đại học được nhắm tới từ phía bên trong. Ngược lại, lời khuyên từ bạn bè, gia đình hay từ các bài viết chia sẻ kinh nghiệm từ các diễn đàn trên Internet là cơ sở quan trọng để ra quyết định. Một lựa chọn nữa là tận dụng các sự kiện mang tên “Ngày mở cửa” của chính các trường đại học để có thể trực tiếp có được cái nhìn rõ ràng hơn về công tác giảng dạy tại trường. Suy cho cùng, mỗi sinh viên tương lai nên xem xét kĩ lưỡng xem sở thích của anh ta là gì, liệu anh ta có phải người thích sống tại một thành phố nhất định nào đó không hay liệu cơ hội tiếp xúc thực tế cũng như việc học theo các nhóm nhỏ có quan trọng với anh ta không. Trong trường hợp cuối cùng được nhắc tới ở trên, các trường đại học học khoa học ứng dụng nên được ưu tiên hơn là những trường đại học lớn”. 6. Ulrich Breimann, Human Resources, EMC Deutschland GmbH “Các bảng xếp hạng trường đại học rõ ràng là một tiêu chí tốt khi lựa chọn cơ sở đào tạo. Nhưng ngay cả một tấm bằng loại ưu từ một trường đại học danh tiếng cũng không phải là sự đảm bảo duy nhất cho “công việc mơ ước”. Ngoài việc đào tạo kiến thức chuyên ngành, điều quan trọng hơn là những kĩ năng mềm cần thiết cho việc thực tế hóa những kiến thức đã học và cả những kĩ năng cá nhân mà một ứng viên xin việc có thể tự trang bị cho bản thân. Thế nên, điều quan trọng hàng đầu là nội dung học và các điều kiện hỗ trợ của một ngành học phải phù hợp với người học và người đó có thể tạo ra hiệu quả tối ưu – như vậy anh ta mới có thể thành công trong việc tìm kiếm một công việc phù hợp”. 7. Daniela Petschick, Personal, THOST Projektmanagement für Bauten und Anlagen GmbH “Việc bạn học trường nào không phải là vấn đề cần tranh cãi khi chúng tôi lựa chọn ứng viên. Để đánh giá một ứng viên, chúng tôi lấy các hội thảo, bài giảng mà anh ta đã tham dự cũng như tổ hợp môn mà anh ta đã học làm tiêu chí hàng đầu.” 8. Carlo Retterath, Human Resources Management, Deutsche Post Consult GmbH “Tôi cho rằng các bảng xếp hạng trường đại học là vấn đề khá nan giải, vì rất ít khi chúng ta biết được chúng được tạo ra dựa trên những tiêu chí nào và nhóm đối tượng nào đã được thăm dò để cho ra kết quả như vậy. Nếu đối tượng được hỏi là sinh viên, kết quả cho ra đương nhiên sẽ hoàn toàn khác so với khi hỏi giáo sư hay các công ty. Điều quan trọng hơn cả khi chọn trường nên là ấn tượng cá nhân cũng như cảm giác “tâm can mách bảo”, thay vì lựa chọn một nơi mà bạn sẽ dành nhiều năm cuộc đời của mình ở đó chỉ thuần dựa vào các tỉ lệ phần trăm”. 9. Peter Schürholz, Personalrekrutierung, Lufthansa Technik AG “Ở đây, ta nên xem xét kĩ hơn việc xếp hạng này dựa trên tiêu chí nào và liệu những tiêu chí này có phù hợp với bạn hay không. Theo quan điểm của tôi, ta không nên quá phụ thuộc vào thứ hạng của các trường đại học khi lựa chọn trường cho mình”. 10. Diplom-Wirtschaftsjurist (FH) Marc Seydewitz, Personal, Deutsche Bahn AG – DB International GmbH “Điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các bảng xếp hạng trường đại học không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực tế. Mỗi sinh viên nên làm quen với từ khóa “Mức độ chính xác”. Nhiều trường đại học nhỏ hơn cũng dạy rất tốt”. Trên tư cách là một cựu sinh viên và hiện đang làm trong một công ty về lĩnh vực sản xuất ô tô, mình muốn nói lên vài quan điểm cá nhân về giáo dục Đức và cơ hội việc làm sau này. Đầu tiên, như các bạn đã biết, 14/16 bang của Đức đến thời điểm này vẫn miễn hoàn toàn học phí bậc đại học, kể cả là cho sinh viên nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc, nền giáo dục Đức không thật sự được coi là một mảng trong kinh doanh hay quảng bá đất nước, như giáo dục Anh, Mỹ, Úc hay Canada. Với nền giáo dục như vậy, khi so sánh với các nước kể trên, số lượng học bổng tại Đức sẽ không có nhiều, tiêu chuẩn đầu vào sẽ dễ hơn rất nhiều nhưng tiêu chuẩn đầu ra thì sẽ không dễ chút nào cả. Từ trải nghiệm cá nhân của mình với ngành Elektrotechnik và thông qua tham khảo từ bạn bè học nhiều ngành khác nhau từ khắp nơi trên nước Đức, mình cho rằng, việc bạn học 1 trường đại học bất kì tại Đức, bất kể ngành nào, và có thể ra được trường đã là một thành công lớn rồi. Nếu bạn muốn gia tăng cơ hội xin việc, như các chuyên gia ở trên đã nói, rất nhiều yếu tố được xem xét tới chứ không chỉ đơn giản là bạn học trường nào. Dĩ nhiên, nếu tốt nghiệp một trường có danh tiếng, cơ hội để bạn tạo ra ấn tượng đầu tiên với nhà tuyển dụng giữa hàng loạt các ứng viên khác là tốt hơn. Tuy nhiên, điều đó mới chỉ mang đến cho bạn cơ hội được tham gia vào các vòng phỏng vấn mà thôi. Khi đã tham gia vào các vòng phỏng vấn, yếu tố quyết định xem bạn có được nhận hay không lại là kiến thức cá nhân, các kĩ năng mềm, khả năng xử lý tình huống và đương nhiên, cả ngoại ngữ của bạn nữa. Những thứ này đáng tiếc là chúng ta không thể học quá nhiều từ trường lớp, mà phải va chạm, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài, đặc biệt là trong các môi trường chuyên nghiệp. Vì thế, lời khuyên của mình là: hãy sớm định hướng xem sau này bản thân muốn làm về mảng gì và cố gắng cải thiện các kĩ năng chuyên biệt cho mảng đó cũng như tạo ra cho mình một bản CV đẹp bằng việc đi làm thực tập càng nhiều càng tốt. Để có được các cơ hội thực tập, việc các bạn có thể làm cụ thể đầu việc gì (ví dụ như biết lập trình một vài ngôn ngữ phổ thông, sử dụng tốt Microsoft Office, đặc biệt là Excel,…) và có khả năng ngôn ngữ tốt là rất quan trọng. Dĩ nhiên, các bạn cũng có thể có cơ hội thực hành dựa trên những chương trình liên kết của trường với các công ty, viện nghiên cứu khác hay có thể làm nghiên cứu sinh trong các dự án nghiên cứu của chính trường mà các bạn theo học. Đối với cá nhân mình, những kinh nghiệm đi làm thực tế cũng như các chứng chỉ về việc hoàn thành những mảng kĩ năng chuyên biệt mà công ty nào đó cần sẽ mang đến một ấn tượng còn tốt hơn nhiều so với việc tốt nghiệp một trường đại học đứng hàng đầu trên Hochschulranking. Chúc các bạn sinh viên tương lai thành công trong việc lựa chọn trường đại học cho mình nhé! Nguồn tham khảo: https://www.connecticum.de/karrierefragen/hochschulwahl-frage-1220885336 Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Danh từ, trong bất cứ thứ tiếng nào, đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra sự hiện diện cụ thể của sự vật, sự việc. Thiếu đi danh từ, mọi cuộc hội thoại đều không thể nào được hiểu trọn vẹn nữa. Do vậy, khi học một ngoại ngữ mới, ưu tiên hàng đầu của người học đối với việc học từ mới là học danh từ. Để học từ mới cho hiệu quả, trong bài viết này, chúng ta cùng xem xét 3 nhóm danh từ khác nhau được phân chia theo ý nghĩa của chúng trong tiếng Đức: 1. Gattungsnamen Đây là nhóm đầu tiên và cũng là nhóm với số lượng từ nhiều nhất. Nhóm bao gồm những danh từ biểu hiện khái niệm cụ thể trong thực tế, ví dụ như Tisch (cái bàn), Flasche (cái chai), Auto (xe hơi) hay Land (đất nước). Chúng được gọi là Gattungsnamen vì chúng không chỉ đại diện cho một thứ duy nhất, mà là toàn bộ những khái niệm đếm được khác thuộc về nhóm của chúng. Dù có khác nhau về kiểu dáng, màu sắc, chức năng, kích thước mức nào thì chúng ta không thể chối cãi một sự thật là mọi cái bàn trên thế giới đều phải là cái bàn trước đã, và cái chai cũng vậy. Cách tốt nhất để học từ mới thuộc nhóm này là phân chia chúng thành các nhóm khác nhau. Ở đây, ta lại có 3 cách phân nhóm khác nhau: Phân nhóm theo mức độ cụ thể tăng dần: có nghĩa là chúng ta sẽ có các Oberbegriffe (khái niệm tổng quát), trong đó bao gồm các Unterbegriffe (khái niệm cụ thể). Ví dụ: Phân nhóm theo việc kể tên các thành phần của một tổ hợp tổng thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có 1 khái niệm được cấu thành từ các khái niệm nhỏ hơn. Ví dụ: Phân nhóm theo một văn cảnh cụ thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có một loạt các khái niệm có liên quan đến văn cảnh mà ta nhắc đến. Ví dụ: Nếu suy nghĩ đến quá trình tiếp thu tiếng Việt, rõ ràng chúng ta không hề ghi nhớ từ mới theo thứ tự bảng chữ cái, mà là theo tư duy phân nhóm như ở trên. Não bộ chúng ta chứa rất nhiều nơ-ron thần kinh và chúng phân bố theo mô hình mạng lưới. Điều đó có nghĩa là, chúng sẽ hoạt động càng tốt khi chúng ta càng tạo ra được nhiều sợi dây liên kết giữa các khái niệm với nhau. Bằng tư duy phân nhóm, việc học từ mới, đặc biệt là danh từ, sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều. Một chú ý nhỏ cho các danh từ thuộc nhóm Gattungsnamen: ở số nhiều, các khái niệm thuộc nhóm này sẽ không cần đến Artikel (quán từ xác định) nếu khái niệm được nói đến là khái niệm chung nhất chứ không phải bất cứ một thành phần cụ thể nào. Ví dụ như câu: “Katzen sind sehr ortsgebunden und ziehen es vor, in ihrer gewohnten Umgebung zu bleiben” (Loài mèo gắn bó rất chặt với địa điểm và thường có xu hướng ưu tiên việc ở trong một không gian mà chúng quen thuộc) rõ ràng nói đến toàn bộ loài mèo chứ không hề nói đến cá thể mèo nào cả. 2. Stoffsubstantive Nhóm danh từ thứ hai là một nhóm nhỏ hơn rất nhiều. Nó bao gồm những danh từ chỉ vật chất cơ bản hay nguyên liệu, ví dụ như Glas (kính), Wasser (nước), Gold (vàng) hay Schnee (tuyết). Điều gây khó khăn cho người học khi sử dụng những danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng thường được sử dụng mà không cần quan tâm đến Genus (cách) hay trong nhiều trường hợp là cả Artikel (quán từ xác định). Ví dụ như câu “etwas ist aus Holz” (cái gì đó làm từ gỗ) không có cả 2 thứ trên, ngay cả khi “aus” là một giới từ thông thường đòi hỏi Dativ (cách 3). Dưới đây là những đặc điểm của các danh từ thuộc nhóm Stoffsubstantive này: Ở số ít, chúng không cần quán từ xác định: Aluminium ist leichter als Stahl (Nhôm nhẹ hơn thép). Ở số ít, chúng không cần đi cùng với cách: Der Palast des Königs ist aus Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính). Ở số ít, chúng đi cùng với cách khi có sự xuất hiện của tính từ: Der Palast des Königs ist aus kugelsicherem Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính chống đạn). Khái niệm số nhiều của danh từ thuộc nhóm này sẽ chỉ được sử dụng khi các khái niệm cụ thể hơn cùng xuất hiện trong văn cảnh đó: Zum Kochen sollte man am besten pflanzliche Öle wie Olivenöl oder Sonnenblumenöl verwenden (Khi nấu ăn, tốt nhất ta nên sử dụng những loại dầu làm từ thực vật như dầu ô-liu hay dầu hướng dương). Đối với một số danh từ đặc biệt, chúng ta không có khái niệm số nhiều thông thường cho chúng, mà chỉ có khái niệm số nhiều thông qua việc thay đổi bản chất từ, ví dụ như Milch (sữa): Im Supermarkt kann man verschiedene Milchsorten kaufen (Ở siêu thị ta có thể mua rất nhiều chủng loại sữa khác nhau). Thỉnh thoảng thì Gattungsnamen cũng được dùng như là Stoffsubstantive và được dùng tương tự như vậy để nhấn mạnh một tính chất đặc biệt nào đó. Ví dụ như vor Freude (trong niềm vui), aus Angst (do sợ hãi), Liebe ist nur ein Wort (tình yêu chỉ là một từ mà thôi), Erkältung haben (bị cảm lạnh),… 3. Eigennamen Đây là nhóm danh từ cuối cùng và từ mới thuộc nhóm này thường không gây ra quá nhiều khó khăn cho người học. Đúng như tên gọi, các danh từ nhóm này bao gồm tên riêng, ví dụ như họ và tên của một người cụ thể hay tên một công ty, một tập đoàn, một trường đại học. Vì thể hiện các khái niệm riêng biệt như vậy nên các danh từ của nhóm này đương nhiên cũng không cần Artikel (quán từ xác định) nữa. Vậy nên, ví dụ nếu ai đó nói đến khái niệm “ein VW” thì ta cần hiểu, người đó đang đề cập đến khái niệm rút gọn của “một chiếc xe VW” chứ không phải là “tập đoàn VW”. Tuy vậy, trong một vài trường hợp, ta cũng có ngoại lệ với việc Eigennamen thì không cần Artikel. Ví dụ, khi một người nhắc về một người khác với tên riêng cùng quán từ xác định như sau “Heute sehe ich den Kobe nicht” (Hôm nay tôi không nhìn thấy thằng Kobe), họ muốn nhấn mạnh rằng người mà họ nhắc tới là một người quen, hoặc là tạo ra tín hiệu rằng, những người đang nghe cũng biết đến người có tên mà họ nhắc đến, phân biệt người được nhắc đến với những người có cùng tên gọi khác. Ngược lại, việc người nói sử dụng quán từ không xác định như là “Da ist ein Kobe am Telefon!” (có một ông nào đó tên Kobe đang ở bên kia đầu dây nè!) thể hiện cho người nghe rằng họ không biết ông tên Kobe này là ai. Ngoài ra, còn một trường hợp ngoại lệ khác với các danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng ta có thể dùng tên riêng thêm đuôi “s” để tạo ra tính chất sở hữu tương tự như khi sử dụng Genitiv (cách 2), ví dụ như “Kobes Haus” (nhà của Kobe). Tuy vậy, cách nói đơn giản với giới từ “von” (das Haus von Kobe) vẫn được dùng nhiều hơn và cũng dễ hiểu hơn. Tác giả: Kobe Minh họa: Diệu Bích