Danh từ, trong bất cứ thứ tiếng nào, đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra sự hiện diện cụ thể của sự vật, sự việc. Thiếu đi danh từ, mọi cuộc hội thoại đều không thể nào được hiểu trọn vẹn nữa. Do vậy, khi học một ngoại ngữ mới, ưu tiên hàng đầu của người học đối với việc học từ mới là học danh từ. Để học từ mới cho hiệu quả, trong bài viết này, chúng ta cùng xem xét 3 nhóm danh từ khác nhau được phân chia theo ý nghĩa của chúng trong tiếng Đức: 1. Gattungsnamen Đây là nhóm đầu tiên và cũng là nhóm với số lượng từ nhiều nhất. Nhóm bao gồm những danh từ biểu hiện khái niệm cụ thể trong thực tế, ví dụ như Tisch (cái bàn), Flasche (cái chai), Auto (xe hơi) hay Land (đất nước). Chúng được gọi là Gattungsnamen vì chúng không chỉ đại diện cho một thứ duy nhất, mà là toàn bộ những khái niệm đếm được khác thuộc về nhóm của chúng. Dù có khác nhau về kiểu dáng, màu sắc, chức năng, kích thước mức nào thì chúng ta không thể chối cãi một sự thật là mọi cái bàn trên thế giới đều phải là cái bàn trước đã, và cái chai cũng vậy. Cách tốt nhất để học từ mới thuộc nhóm này là phân chia chúng thành các nhóm khác nhau. Ở đây, ta lại có 3 cách phân nhóm khác nhau: Phân nhóm theo mức độ cụ thể tăng dần: có nghĩa là chúng ta sẽ có các Oberbegriffe (khái niệm tổng quát), trong đó bao gồm các Unterbegriffe (khái niệm cụ thể). Ví dụ: Phân nhóm theo việc kể tên các thành phần của một tổ hợp tổng thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có 1 khái niệm được cấu thành từ các khái niệm nhỏ hơn. Ví dụ: Phân nhóm theo một văn cảnh cụ thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có một loạt các khái niệm có liên quan đến văn cảnh mà ta nhắc đến. Ví dụ: Nếu suy nghĩ đến quá trình tiếp thu tiếng Việt, rõ ràng chúng ta không hề ghi nhớ từ mới theo thứ tự bảng chữ cái, mà là theo tư duy phân nhóm như ở trên. Não bộ chúng ta chứa rất nhiều nơ-ron thần kinh và chúng phân bố theo mô hình mạng lưới. Điều đó có nghĩa là, chúng sẽ hoạt động càng tốt khi chúng ta càng tạo ra được nhiều sợi dây liên kết giữa các khái niệm với nhau. Bằng tư duy phân nhóm, việc học từ mới, đặc biệt là danh từ, sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều. Một chú ý nhỏ cho các danh từ thuộc nhóm Gattungsnamen: ở số nhiều, các khái niệm thuộc nhóm này sẽ không cần đến Artikel (quán từ xác định) nếu khái niệm được nói đến là khái niệm chung nhất chứ không phải bất cứ một thành phần cụ thể nào. Ví dụ như câu: “Katzen sind sehr ortsgebunden und ziehen es vor, in ihrer gewohnten Umgebung zu bleiben” (Loài mèo gắn bó rất chặt với địa điểm và thường có xu hướng ưu tiên việc ở trong một không gian mà chúng quen thuộc) rõ ràng nói đến toàn bộ loài mèo chứ không hề nói đến cá thể mèo nào cả. 2. Stoffsubstantive Nhóm danh từ thứ hai là một nhóm nhỏ hơn rất nhiều. Nó bao gồm những danh từ chỉ vật chất cơ bản hay nguyên liệu, ví dụ như Glas (kính), Wasser (nước), Gold (vàng) hay Schnee (tuyết). Điều gây khó khăn cho người học khi sử dụng những danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng thường được sử dụng mà không cần quan tâm đến Genus (cách) hay trong nhiều trường hợp là cả Artikel (quán từ xác định). Ví dụ như câu “etwas ist aus Holz” (cái gì đó làm từ gỗ) không có cả 2 thứ trên, ngay cả khi “aus” là một giới từ thông thường đòi hỏi Dativ (cách 3). Dưới đây là những đặc điểm của các danh từ thuộc nhóm Stoffsubstantive này: Ở số ít, chúng không cần quán từ xác định: Aluminium ist leichter als Stahl (Nhôm nhẹ hơn thép). Ở số ít, chúng không cần đi cùng với cách: Der Palast des Königs ist aus Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính). Ở số ít, chúng đi cùng với cách khi có sự xuất hiện của tính từ: Der Palast des Königs ist aus kugelsicherem Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính chống đạn). Khái niệm số nhiều của danh từ thuộc nhóm này sẽ chỉ được sử dụng khi các khái niệm cụ thể hơn cùng xuất hiện trong văn cảnh đó: Zum Kochen sollte man am besten pflanzliche Öle wie Olivenöl oder Sonnenblumenöl verwenden (Khi nấu ăn, tốt nhất ta nên sử dụng những loại dầu làm từ thực vật như dầu ô-liu hay dầu hướng dương). Đối với một số danh từ đặc biệt, chúng ta không có khái niệm số nhiều thông thường cho chúng, mà chỉ có khái niệm số nhiều thông qua việc thay đổi bản chất từ, ví dụ như Milch (sữa): Im Supermarkt kann man verschiedene Milchsorten kaufen (Ở siêu thị ta có thể mua rất nhiều chủng loại sữa khác nhau). Thỉnh thoảng thì Gattungsnamen cũng được dùng như là Stoffsubstantive và được dùng tương tự như vậy để nhấn mạnh một tính chất đặc biệt nào đó. Ví dụ như vor Freude (trong niềm vui), aus Angst (do sợ hãi), Liebe ist nur ein Wort (tình yêu chỉ là một từ mà thôi), Erkältung haben (bị cảm lạnh),… 3. Eigennamen Đây là nhóm danh từ cuối cùng và từ mới thuộc nhóm này thường không gây ra quá nhiều khó khăn cho người học. Đúng như tên gọi, các danh từ nhóm này bao gồm tên riêng, ví dụ như họ và tên của một người cụ thể hay tên một công ty, một tập đoàn, một trường đại học. Vì thể hiện các khái niệm riêng biệt như vậy nên các danh từ của nhóm này đương nhiên cũng không cần Artikel (quán từ xác định) nữa. Vậy nên, ví dụ nếu ai đó nói đến khái niệm “ein VW” thì ta cần hiểu, người đó đang đề cập đến khái niệm rút gọn của “một chiếc xe VW” chứ không phải là “tập đoàn VW”. Tuy vậy, trong một vài trường hợp, ta cũng có ngoại lệ với việc Eigennamen thì không cần Artikel. Ví dụ, khi một người nhắc về một người khác với tên riêng cùng quán từ xác định như sau “Heute sehe ich den Kobe nicht” (Hôm nay tôi không nhìn thấy thằng Kobe), họ muốn nhấn mạnh rằng người mà họ nhắc tới là một người quen, hoặc là tạo ra tín hiệu rằng, những người đang nghe cũng biết đến người có tên mà họ nhắc đến, phân biệt người được nhắc đến với những người có cùng tên gọi khác. Ngược lại, việc người nói sử dụng quán từ không xác định như là “Da ist ein Kobe am Telefon!” (có một ông nào đó tên Kobe đang ở bên kia đầu dây nè!) thể hiện cho người nghe rằng họ không biết ông tên Kobe này là ai. Ngoài ra, còn một trường hợp ngoại lệ khác với các danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng ta có thể dùng tên riêng thêm đuôi “s” để tạo ra tính chất sở hữu tương tự như khi sử dụng Genitiv (cách 2), ví dụ như “Kobes Haus” (nhà của Kobe). Tuy vậy, cách nói đơn giản với giới từ “von” (das Haus von Kobe) vẫn được dùng nhiều hơn và cũng dễ hiểu hơn. Tác giả: Kobe Minh họa: Diệu Bích
Daily Archives: December 20, 2021
1 post