Học ngoại ngữ là một quá trình rất dài và đòi hỏi người học rất nhiều cố gắng, nỗ lực mới có thể đạt đến trình độ cao nhất định. Chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng đã từng ít nhất một lần trải qua chặng đường như vậy và với tư cách là một người theo học, thường thì những câu hỏi sẽ là: “Tiếng ABC có khó học không?”; “Mất bao lâu thì đạt trình độ XYZ?”; “Làm thế nào để nói tiếng ABC được như người ABC?”; vân vân và vân vân. Tiếng Đức dĩ nhiên không phải một ngoại lệ. Vậy thì đã có bạn nào từng đặt ra câu hỏi này chưa: “Thế học tiếng Đức chốt lại là học cái gì?”Dựa trên hiểu biết cá nhân cũng như kinh nghiệm thực tế, mình xin đề xuất một mô hình riêng đối với việc tiếp cận tiếng Đức: mô hình chiếc xe lưu động. Với quy mô của một bài viết truyền thông, mình sẽ không đi sâu vào phân tích từng khía cạnh và làm rõ các giải pháp cụ thể mà chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu và nêu ra ý nghĩa chung của mô hình này. Rất hi vọng trong tương lai không xa, mình sẽ có cơ hội để cải tiến và mở rộng mô hình này ở một luận án nào đó xD! Bây giờ mình sẽ giới thiệu về mô hình chiếc xe lưu động. Đối với mình, chiếc xe lưu động chính là một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi nhưng có thêm lợi thế là có thể di chuyển khắp nơi. Tuy để so sánh cả một bầu trời kiến thức trong ngôn ngữ Đức với một ngôi nhà nhỏ xíu thì cũng có hơi khập khiễng, tuy nhiên chúng ta hãy tạm coi rằng, kiến thức chúng ta cần học chính là chiếc xe lưu động này và việc của chúng ta cần làm là làm cho nó vận hành tốt nhất có thể. Mình sẽ chia các chi tiết của ngôi nhà di động này tương ứng với các kĩ năng cần học đối với ngôn ngữ, cụ thể như sau: 1. Phát âm (Aussprache) = Cánh cửa Xét về mặt độ lớn cũng như quy mô, rõ ràng cánh cửa không là gì so với toàn bộ ngôi nhà. Vậy nhưng, nếu không thể bước qua cánh cửa, chúng ta cũng khỏi bước vào nhà luôn, bất kể trong nhà có cái gì. Đó là lý do mình so sánh cánh cửa với việc học phát âm! Lượng kiến thức về việc học phát âm so với toàn bộ kiến thức chung về tiếng Đức thực tế là rất khiêm tốn. Tuy vậy, kiến thức có biết nhiều hơn nữa mà phát âm sai thì đối với mình cũng không có giá trị gì. Cũng như việc sở hữu một ngôi nhà chất lượng mà không thể bước vào vậy, nói chung là không vui lắm… 2. Vốn từ vựng (Wortschatz) = Đồ đạc trong nhà Một ngôi nhà càng đầy đủ khi nó sở hữu càng nhiều đồ đạc, càng tiện nghi khi nó sở hữu càng nhiều thiết bị hiện đại, cao cấp, đắt tiền. Điều này là không phải bàn cãi! Từ vựng cũng như vậy! Càng biết nhiều từ vựng và càng biết nhiều từ vựng cao cấp thì cuộc sống với tiếng Đức của chúng ta càng trở nên dễ chịu. Việc học từ vựng do vậy cũng như khi xây dựng nội thất của một ngôi nhà. Sẽ rất khó để biết chính xác ngay từ đầu là một ngôi nhà sẽ cần đồ đạc gì. Chúng ta có thể có thể sắm cho mình 1 số đồ đạc theo gợi ý từ kiến trúc sư, tuy nhiên chỉ có chính bản thân chúng ta, từ nhu cầu bản thân và theo thời gian, mới có thể biết chính xác thứ chúng ta cần thêm vào là gì. Vì vậy, hãy cho bản thân thời gian khi học từ vựng! 3. Ngữ pháp (Grammatik) = Cách sắp xếp đồ đạc trong nhà Hãy tưởng tượng bạn có hàng đống đồ đạc hiện đại, tối tân nhưng lại không biết cách tối ưu giá trị sử dụng của chúng. Chẳng hạn như thay vì treo lên tường thì bạn treo chiếc TV lên trần nhà, thay vì để bồn tắm nằm dưới mặt đất thì bạn lại dính nó vào tường,… Ngữ pháp, do vậy, là cách sắp xếp và sử dụng những đồ đạc mà bạn có một cách đúng đắn theo tiêu chuẩn. Ở giai đoạn đầu, khi mà bạn chưa có đồ đạc gì trong nhà hay thậm chí còn chưa bước được nổi vào nhà, dễ nhận thấy là việc học cách sắp xếp đồ là không hề quan trọng. Thế nhưng, theo thời gian, khi đã bước vào được nhà và số lượng đồ đạc đã nhiều lên, việc sắp xếp chúng một cách hợp lý đóng vai trò cực kì quan trọng, đặc biệt nếu các bạn tính đến việc sử dụng một ngôi nhà “Made in Germany” xD! 4. Tư duy ngôn ngữ (Sprachliches Denkvermögen) = Động cơ xe Đây là một khái niệm khá là khó để giải thích trong phạm vi một bài viết ngắn. Một chiếc xe lưu động hay một ngôi nhà di động, ngoài việc để ở, chức năng chính của chúng là giúp cho chủ sở hữu có thể đi khắp nơi và mang theo những tiện ích mà mình đã có. Sẽ thật tuyệt vời nếu có thể bước vào một ngôi nhà, sắm sửa đồ đạc tiện nghi và sắp xếp nó đúng cách. Nhưng nó sẽ mất đi một nửa giá trị ngay nếu tất cả những gì chúng ta có là một ngôi nhà đứng yên! Vâng, chừng nào chúng ta không thể hướng cách tư duy về ngôn ngữ của mình giống như một người bản địa, chừng đó tất cả những gì chúng ta có là một ngôi nhà không tiến về phía trước. Điều đó có nghĩa là, chúng ta có thể tận hưởng sự tiện nghi của nó trong một thời gian ngắn nhất định, nhưng không đời nào có thể cùng với nó đi đến những nơi mà ta chưa từng đến và do vậy, cũng khó có thể đạt được những giới hạn mới. Điểm này mình tin sẽ gây ra nhiều tranh cãi cho người đọc, nhưng mình xin phép để dành đến một dịp khác để làm rõ hơn tất cả những ý tưởng mình nhắc đến ở đây nhé! Trên đây là sơ lược về mô hình chiếc xe lưu động của mình đối với việc học và sử dụng tiếng Đức. Những hình tượng mình mang tới đồng thời cũng tượng trưng cho giá trị sử dụng và mức độ quan trọng của chúng trong việc tiếp cận với ngôn ngữ này. Bài viết này đặc biệt muốn dành tặng cho những bạn đang nghiên cứu và có ý định bắt đầu học tiếng Đức, hay rộng hơn là một ngoại ngữ mới. Mình tin những thứ mới luôn gây ra khó khăn cho tất cả, thế nhưng một cái nhìn và cách tiếp cận hợp lý sẽ giúp cho mọi người rất nhiều trong việc phân phối thời gian, sức lực, tiền bạc và cả sự tập trung nữa. Let’s work smart, not hard! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Yearly Archives: 2021
LESEN – TEIL 1 Đã viết quá nhiều về kĩ năng viết, hôm nay tôi xin phép chia sẻ phương pháp làm bài đọc của mình, hay còn gọi là “Phương pháp đọc có định hướng” (cái tên này được tạo cảm hứng từ OOP, Objektorientierte Programmierung). Để các bạn dễ hiểu, tôi sẽ sử dụng bài mẫu lấy từ Übungssatz für Erwachsene từ trang chủ của Goethe. Như các bạn có thể thấy, đề bài phần này chia làm 2 thứ: bài đọc (ảnh 1) và câu hỏi cần trả lời (ảnh 2). Theo lẽ thông thường, mọi người sẽ đọc bài đọc trước, sau đó mới đọc đến câu hỏi. Với phương pháp của mình, tôi xin đề xuất cách làm việc như sau: 1. Đọc hiểu phần câu hỏi trước Câu hỏi thường là những câu đơn mang thông tin ngắn gọn và khá dễ hiểu. Việc bắt đầu đọc hiểu câu hỏi đầu tiên mang ý nghĩa khởi động cho bài làm và tạo ra tâm lý tốt hơn nếu bài đọc có khiến các bạn hơi choáng vì nhiều từ mới. Tuy vậy, ý nghĩa thật sự của nó sẽ nằm ở việc tôi làm sau đây: Câu hỏi ở phần này là dạng câu hỏi đúng-sai, thế nên người ta sẽ đưa ra các Vermutungen. Việc của chúng ta sẽ là highlight những thông tin có thể sai để kiểm chứng (ảnh 3). Ở mỗi thông tin được highlight, đương nhiên sẽ có những phương án khác khiến Vermutung đề bài cho trở nên sai. Ví dụ câu 1: Markus macht eine Lehre. Thông tin được tôi highlight là „Markus“ và „Lehre“. Điều đó có nghĩa là: có ai đó làm về việc giảng dạy, hoặc là Markus không phải làm về giảng dạy. Ta ghi nhớ thông tin này, và làm tương tự như vậy với các câu còn lại. 2. Quay lại đọc bài với tờ tóm tắt những thông tin cần kiểm tra từ phần câu hỏi ngay bên cạnh Do đã có khái niệm về những thông tin chúng ta cần quan tâm, ta không còn sa đà vào việc cố gắng dịch từng từ từng chữ sang tiếng Việt, mà tập trung tìm kiếm thông tin mà ta cần. Điều này giúp nâng đáng kể tốc độ đọc của chúng ta, khi mà chúng ta không còn cái cảm giác mông lung khi nhìn một đống chữ vô định hình nữa. Đến thời điểm hiện tại tôi vẫn đang áp dụng phương pháp này cho những bài đọc ở trình độ cao hơn và nhiều chữ hơn. Đại khái cũng giống như kiểu trước khi lên mạng đọc tài liệu về một chủ đề nào đó, tôi ưu tiên viết ra giấy ngắn gọn xem: „Bây giờ mình cần cái gì?“ 3. Trong lúc đọc bài, cũng như nhiều bạn đã làm, tôi tìm đến thông tin tôi cần và chỉ highlight vào những thứ quan trọng 4. Bước cuối cùng là kiểm chứng thông tin và trả lời câu hỏi mà đề bài đưa ra Hi vọng các bạn không thấy cách làm của tôi quá khó hiểu hay khó thực hiện. Chúc các bạn thành công với bài đọc của đề thi B1! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
HÖREN – TEIL 2 Đây là lần đầu tiên tôi viết một bài hướng dẫn về việc làm bài thi nghe. Tôi không gọi là bài hướng dẫn về kĩ năng nghe, bởi vì cách tôi chuẩn bị giới thiệu với các bạn đây nó không liên quan đến việc nghe cho lắm, nó liên quan đến tư duy logic nhiều hơn. Tôi không đảm bảo cách làm này là làm đâu trúng đấy, và cũng không khuyến khích tất cả mọi người làm theo, nên bạn nào có ý định phản đối thì mong các bạn vui lòng chuyển kênh khác xem tiếp luôn^^ Tôi chọn Teil 2 của đề thi B1 vì tôi nghĩ với nhiều bạn, chọn 1 trong 3 đáp án mà chỉ được nghe một lần là một việc khá là khó nhằn. Phương pháp mà tôi sử dụng ở đây về cơ bản nó cũng giống với cách tôi khuyên các bạn đọc ở bài trước, có điều là ở đây ta chỉ có mỗi câu hỏi thôi, nên đương nhiên là ta phải tập trung 100% sức lực vào việc phân tích những câu hỏi đó. Việc phân tích câu hỏi mang một ý nghĩa rất lớn, khi ta sẽ có được sự hình dung cho những gì mình sắp nghe, và việc giới hạn tìm kiếm thông tin mình cần. Tuy vậy, với bài thi nghe này, tôi thậm chí khuyên các bạn làm một việc táo bạo hơn, đó là trực tiếp phán đoán dựa vào câu hỏi và liên hệ với thực tế để loại đi những đáp án không thể nào đúng, đặt dấu hỏi cho những đáp án rất khó có khả năng xảy ra, hay thậm chí chỉ trực tiếp ra đáp án mình cho là đúng. Cụ thể mời các bạn tham khảo quá trình tôi làm thử một bài tập mẫu trích từ Übungssatz für Erwachsene của Goethe Institut sau đây: Đánh giá thông tin cho sẵn: Người ta sẽ cho sẵn bạn một câu ngắn gọn để tóm tắt nội dung mà bạn sắp sửa nghe. Please, đừng ai bỏ qua cái dòng này giúp mình!!! Bởi vì nó sẽ giúp bạn lọc được rất nhiều thứ không cần thiết đấy. Cụ thể cho bài thi này: Bạn sẽ tham gia vào chương trình thể thao kéo dài một tuần và trong ngày khai mạc bạn nhận được những thông tin sau đây… Như vậy, chưa nghe tôi cũng có thể tưởng tượng ra là sẽ có một người hướng dẫn, đang đứng trước một nhóm người tham gia để phổ biến những thứ mọi người cần biết khi tham gia chương trình tập luyện thể thao này! Đánh giá dữ kiện câu hỏi: Như các bạn có thể thấy, những câu hỏi thường là những câu khá dễ và ngắn, nên tôi yêu cầu mọi người phải đọc hiểu 100% những câu hỏi này đã, rồi mới tính tiếp. Sau đó, tôi tiến hành bước đầu tiên là loại bỏ những thông tin tôi cho là không thể nào đúng. Trong hình, tôi loại bỏ ý 11b và 14a ngay từ đầu. Lý do cho câu 11b là tôi không nghĩ tham gia một khóa học ngắn hạn (1 tuần) liên quan thể thao mà người ta lại bắt bạn tự nấu ăn ngày 2 lần bao giờ, bảo bạn tự đi ăn ngoài thì may ra tôi còn tin. Lý do cho câu 14a là vì nếu ý người ta là buổi tối chỉ được tập luyện 1 giờ (cái này nghe cũng rất vô lý rồi), thì câu cho sẵn phải dùng từ „dürfen“ chứ không phải là „können“. Đưa ra phán đoán cá nhân: Đây là một phần khá là phức tạp nên tôi sẽ làm riêng từng câu cho các bạn dễ quan sát. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, đây là cách phân tích hoàn toàn dựa vào chủ quan và trực giác, không phải cách để giúp các bạn nghe tốt, nên nếu ai không hài lòng khi đọc đến đây, rất mong các bạn có thể dừng đọc giúp tôi. Câu 11: Sau khi loại đi đáp án b, tôi cho rằng sẽ là logic nhất khi chọn đáp án c (ở đây các bạn tự lo bữa sáng, còn bữa trưa và tối thì chúng ta ăn cùng nhau). Đây là một Sportprogramm tập thể chứ không phải chương trình huấn luyện đặc biệt giảm cân, tôi không nghĩ là cứ sáng sáng lại có người gọi cho từng thành viên tham gia để hướng dẫn xem hôm nay bạn nên ăn gì. Câu 12: Cả 3 đáp án mà đề bài ra đều có thể xảy ra, mỗi đáp án trả lời cho một câu hỏi như tôi đã viết trong hình. Việc các bạn nghe đáp án cho câu này vì thế sẽ dễ hơn nếu bạn tập trung, nhưng tôi vẫn muốn đề xuất đáp án phán đoán của mình, dựa vào trực giác. Vì đây là một chương trình tập luyện thể thao, không phải đoàn leo núi hay là trong quân đội, tôi không nghĩ ở Đức người ta lại bắt mọi người là có mặt lúc mấy giờ, hay là tập trung ở đâu như kiểu ở Việt Nam. Phán đoán của tôi ở đây là đáp án b. Câu 13: Người tham gia sẽ phải đăng kí sớm cho một trong 3 chương trình được nêu ra ở đáp án: một khóa học liên quan đến môn chơi bóng (ví dụ như bóng rổ), một Tour đi xe đạp và thuê sân để đánh Tennis theo giờ. Đăng kí sớm liên quan đến sự chuẩn bị phức tạp hơn, do vậy tôi không nghĩ có chương trình nào cần chuẩn bị nhiều hơn là việc tổ chức hẳn 1 Tour đi xe đạp. Đáp án tôi hướng đến là b. Câu 14: Sau khi loại đáp án a, tôi nghĩ cả 2 đáp án b và c đều có khả năng xảy ra như nhau. Tôi gạch chân 2 từ „besuchen“ và „trainieren“ để các bạn tiện cho việc tập trung nghe của mình hơn. Cá nhân tôi phán đoán rằng, có thể người ta sẽ muốn nói đến nhiều hơn là việc tập luyện, nên ngoài tập luyện, có thể sẽ còn có tham quan Sportgeschäft. Do đó tôi phán đoán đáp án b. Câu 15: Cả 3 đáp án trong câu này thực chất đều có thể xảy ra. Nhưng với tính chất một Abschlussfeier, việc có đồ ăn hay nhảy nhót trong bữa tiệc là những việc tôi cho là rất hiển nhiên, nên tôi không nghĩ người ta phải đề cập đặc biệt đến những thứ như thế này. Do vậy, tôi phán đoán đáp án c là đáp án đúng. Sau khi kiểm tra lại Lösung của đề thi, tôi đã làm đúng 4/5 câu, chỉ sai duy nhất câu 14, dù thậm chí còn chưa bắt đầu nghe. Tất cả những đáp án tôi cho là không thể đúng thì đều không phải đáp án thật. Tuy vậy, việc đúng từng này câu tôi cho là nhờ may mắn khá nhiều. Cái mà tôi muốn các bạn hướng đến, cũng tương tự như khi làm bài đọc, hãy luôn tạo ra các Vermutungen (phán đoán chủ quan), bởi vì việc kiểm tra một phán đoán là đúng hay sai bao giờ cũng dễ hơn việc tìm kiếm thông tin để khoanh cho được đáp án đúng. Khi đó, các bạn cũng sẽ „nghe có định hướng“ hơn, và tỉ lệ các bạn nghe ra cái gì cần nghe sẽ cao hơn. Ngoài ra, tôi cũng biết có rất nhiều bạn kĩ năng nghe chưa tốt (chủ yếu là do phát âm sai và ít chịu nghe thường xuyên), nên vào phòng thi gặp những bài nghe 1 lần thế này thường là rất sợ và căng thẳng. Phương pháp này sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng rất nhiều trong phòng thi. Còn nếu các bạn thực sự không thể nghe nổi vì lý do nào đó, gợi ý của tôi trên đây là một cách không tồi để các bạn phán đoán đáp án, chí ít là cũng tốt hơn hoàn toàn khoanh bừa, phải không? Chúc các bạn thành công với bài thi nghe! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
“Dies” và “Das” là 2 đại từ chỉ định (Demonstrativpronomen), có nghĩa là những từ dùng để thay thế, có chức năng nhắc lại/làm nổi bật thông tin đã được nhắc đến ở phía trước. Do vậy, chúng không cần đi trực tiếp với một chủ ngữ như khi là quán từ. Về mặt ý nghĩa và cách sử dụng, 2 từ này hoàn toàn giống và có thể thay thế được cho nhau, ví dụ: Die Schüler haben die Hausaufgaben nicht gemacht. Das kann man nicht akzeptieren. Die Schüler haben die Hausaufgaben rechtzeitig abgegeben. Dies halte ich für unglaublich. “Das” là một từ phổ biến và được sử dụng rộng rãi hơn, trong khi “Dies” được dùng nhiều ở miền Nam nước Đức và một số nước châu Âu nói tiếng Đức khác. Cần chú ý rằng, khi được sử dụng như đại từ chỉ định, “dies” và “das” không thay thế cho bất kì một danh từ giống trung nào ở phía trước (phân biệt với “dieses” và “das” trong trường hợp này), mà nó thay thế cho toàn bộ nội dung, tức là một câu/một ý tưởng hoàn chỉnh nào đó. Để cho rõ ràng hơn, các bạn hãy tham khảo 2 ví dụ với “das” sau đây: Ich habe ein neues Auto gekauft. Das gefällt mir sehr gut. Ich habe ein neues Auto gekauft. Das können meine Freunde sich nicht vorstellen. Ngoài ra, trong các cuộc nói chuyện của giới trẻ, “dies das” viết liền nhau được dùng để thể hiện chung chung nhiều thứ không được định nghĩa rõ ràng, ví dụ: Was machst du? Dies das! (Bạn làm gì thế? Ừ thì cái này cái kia – người trả lời ám chỉ rằng câu trả lời cụ thể cho câu hỏi đó không thật sự quan trọng hoặc đơn giản là anh ta không muốn trả lời câu hỏi đó). Ich war gestern grillen, dies das (Hôm qua tôi đi nướng thịt “các thứ các thứ” – người trả lời ám chỉ là họ đi nướng thịt và làm rất nhiều những hoạt động khác liên quan đến nướng thịt, nhưng họ không muốn liệt kê hết ra). Tác giả: Kobe
Ở Đức, bạn có rất nhiều sự lựa chọn khác nhau cho việc học đại học. Bên cạnh việc học toàn thời gian truyền thống, chúng ta còn có hình thức học bán thời gian, học từ xa và học vào buổi tối (hệ tại chức). Nội dung giảng dạy, tùy thuộc vào chuyên ngành, là như nhau với tất cả các hình thức kể trên. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn tồn tại những sự khác biệt nhất định. Học đại học toàn thời gian là hình thức học đại học truyền thống. Tại nhiều trường đại học và ở nhiều khoa, học toàn thời gian là sự lựa chọn duy nhất. Đối với hình thức này, sinh viên dành đại bộ phận thời gian cho việc học. Việc học ở đây không chỉ bao gồm việc tham gia các bài giảng và hội thảo, mà còn cả việc tự học tại nhà. Ưu điểm của việc học toàn thời gian là nhanh chóng được tốt nghiệp. Tuy vậy, để có thể được học tại một trường đại học, bạn không nhất thiết phải lựa chọn học toàn thời gian, thay vào đó có thể là một chương trình học từ xa. Hình thức này đặc biệt phù hợp cho những người đã đi làm hoặc phụ huynh, giúp họ hoàn thành việc học đại học ngay cả khi không có đủ thời gian lên lớp. Việc học, do vậy, sẽ gần như hoàn toàn phụ thuộc vào tự học. Điều này cho phép sinh viên hệ này tự phân phối khối lượng học tùy thuộc vào việc sắp xếp thời gian cá nhân. Sẽ không có một lộ trình cố định, không có các buổi lên lớp và gần như không có bất kì nghĩa vụ bắt buộc nào. Sinh viên sẽ nhận hướng dẫn từ các giảng viên qua Internet, nhưng các kì thi hoặc bài kiểm tra thì bắt buộc phải được tổ chức tập trung ở trường đại học. Bằng tốt nghiệp của hình thức đào tạo từ xa hoàn toàn được công nhận. Học từ xa đòi hỏi sinh viên phải có mức độ cam kết, cũng như tính kỷ luật rất cao. Ngoài ra, học từ xa thường mất nhiều thời gian hơn so với học toàn thời gian. Tương tự như vậy là hình thức học bán thời gian. Hình thức này thường kéo dài hơn đến lâu nhất là 3 lần việc học toàn thời gian. Khi học bán thời gian, sinh viên dành tối đa 25 giờ một tuần cho việc học. Các khóa học, bài giảng và hội thảo thường chỉ diễn ra nửa ngày, vào những ngày nhất định trong tuần hoặc vào cuối tuần. Hình thức học này có thể phù hợp với các đối tượng như người đi làm, cha mẹ đơn thân, những sinh viên phải chăm sóc thêm người thân hoặc những người mang nghĩa vụ bắt buộc khác (ví dụ như vận động viên thành tích cao). Việc học bán thời gian có thể được thực hiện theo hình thức đào tạo từ xa hoặc học đại học chính quy. Tuy nhiên, không phải tất cả các ngành học tại các trường đại học đều có thể được hoàn thành theo hình thức học bán thời gian. Sinh viên, dù vậy, có thể đăng ký vào trường đại học của họ để học bán thời gian ngành mà họ muốn thông qua việc nộp một đơn xin. Đơn này chỉ được chấp thuận khi một số điều kiện nhất định được đảm bảo. Điều kiện quan trọng nhất là việc học bán thời gian không được phép gây ảnh hưởng đến quy chế thi cũng như quy định giảng dạy tại khoa. Việc học từ xa hoặc bán thời gian thường được lựa chọn bởi các sinh viên muốn học văn bằng kép. Những sinh viên này thường là những người đã có thể tự lo được cho cuộc sống, đã có 1 công việc ổn định hoặc có gia đình. Một hình thức khác để có thể hoàn thành con đường học vấn thứ hai là việc tham gia khóa học buổi tối (tương tự hệ tại chức ở Việt Nam). Các buổi giảng bài và hội thảo đương nhiên sẽ diễn ra vào buổi tối. Điều này mang lại cho tất cả những ai đang có công việc ổn định và gia đình cơ hội được tiếp tục học đại học. Tuy nhiên, khá hiếm khi các trường đại học tổ chức hình thức học này. Hầu hết các buổi giảng bài của hình thức này diễn ra tại các trường học buổi tối hay các cơ sở dạy nghề. Một lợi thế mà chỉ có sinh viên học toàn thời gian mới được nhận là việc được xác nhận là sinh viên chính quy. Điều này có nghĩa là họ có thể nhận được hỗ trợ từ BAföG. Đối với 2 hình thức học còn lại thì sinh viên không có cơ hội này. Ngoài ra, chỉ sinh viên học toàn thời gian mới được miễn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, điều đương nhiên cũng bất khả thi đối với các hình thức còn lại. Sinh viên học toàn thời gian chỉ được phép làm thêm tối đa 20 giờ mỗi tuần (công việc mini, công việc dành riêng cho sinh viên, công việc bán thời gian) để không bị mất tư cách sinh viên. Chuyển dịch: Mona Minh họa: Diệp Vũ Bài viết gốc với tiêu đề “Studienart” được đăng trên https://www.studien-start.de/studienart.php. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Es gibt in Deutschland verschiedene Möglichkeiten, ein Studium zu absolvieren. Neben dem Vollzeitstudium gibt es noch das Teilzeit-, Fern- und Abendstudium. Die vermittelten Inhalte sind, je nach Fachrichtung, bei allen Studienarten gleich. Dennoch gibt es zwischen den Studienarten Unterschiede. Die klassische Form des Studiums ist das Vollzeitstudium. An vielen Hochschulen und in vielen Fachbereichen ist das Vollzeitstudium die einzige Möglichkeit zu studieren. Bei einem Vollzeitstudium wenden Studenten tatsächlich einen Großteil ihrer Zeit für das Studium auf. Das beinhaltet nicht nur Vorlesungen und Seminare, sondern auch das eigenständige Lernen zu Hause. Der Vorteil eines Vollzeitstudiums ist der schnelle Abschluss. Ein Vollzeitstudium muss allerdings nicht an einer Fachhochschule, Hochschule oder Universität absolviert werden. Alternativ dazu können Studenten ihren Abschluss auch durch ein Fernstudium erlangen. Mit einem Fernstudium ist es unter anderem auch bereits Werktätigen oder Eltern möglich, einen Studienabschluss zu erlangen. Bei einem Fernstudium findet das Studieren fast vollständig in Eigenregie statt. So können Studenten einer Fernuniversität bei freier Zeiteinteilung die Studieninhalte für sich erarbeiten. Es gibt keine festen Abläufe, keine Vorlesungen und kaum Verpflichtungen. Fernstudenten haben die Möglichkeit, sich über das Internet Hilfe von Dozenten zu holen. Die Prüfungen bzw. Klausuren müssen in den Studienzentren abgelegt werden. Hier besteht Anwesenheitspflicht. Die Abschlüsse eines Fernstudiums werden voll anerkannt. Ein Fernstudium erfordert von den Studenten ein hohes Maß an Einsatz und Disziplin. Zudem dauert ein Fernstudium im Vergleich mit einem Vollzeitstudium meist viel länger. Gleiches gilt für ein Teilzeitstudium. Auch dieses dauert im Vergleich mit dem Vollzeitstudium bis zu dreimal länger. Bei einem Teilzeitstudium bringen die Studenten nur maximal 25 Wochenstunden für ihr Studium auf. Wobei die Kurse, Vorlesungen und Seminare häufig nur halbtags, an bestimmten Wochentagen oder an den Wochenenden stattfinden. Ein Teilzeitstudium kann zum Beispiel für Werktätige, alleinerziehende Eltern, Studenten, die einen Angehörigen pflegen, oder für Personen mit anderen Verpflichtungen (zum Beispiel Leistungssportler) in Frage kommen. Das Teilzeitstudium kann in Form eines Fernstudiums oder an einer regulären Hochschule absolviert werden. Allerdings können nicht alle Studiengänge an den Hochschulen in Teilzeit absolviert werden. Studenten haben jedoch die Möglichkeit, an ihrer Universität einen Antrag zu stellen, in Teilzeit studieren zu können. Dies kann unter bestimmten Voraussetzungen genehmigt werden. Hauptvoraussetzung ist, dass die Prüfungsordnung und die Studienordnung dadurch nicht beeinträchtigt werden. Ein Fern- oder Teilzeitstudium wird häufig von Studenten absolviert, die einen Abschluss auf dem zweiten Bildungsweg erlangen möchten. Diese Studenten stehen häufig schon mit beiden Beinen im Leben, haben einen Job oder eine Familie. Eine weitere Studienart für den Abschluss auf dem zweiten Bildungsweg bietet das Abendstudium. Bei einem Abendstudium finden die Vorlesungen und Seminare in den Abendstunden statt. Hierdurch haben alle, die fest in Job und Familie eingebunden sind, die Möglichkeit zu studieren. Ein Abendstudium wird jedoch selten von Universitäten oder Fachhochschulen angeboten. Zumeist finden die Vorlesungen in Abendgymnasien oder in Berufsakademien statt. Ein Vorteil, von dem ausschließlich Vollzeitstudenten profitieren, ist der Studentenstatus. Hierdurch ist eine Förderung durch BAföG möglich. Bei einem Abend- oder Teilzeitstudium besteht diese Möglichkeit nicht. Zudem können nur Vollzeitstudenten von der Sozialversicherungspflicht befreit werden. Bei allen anderen Studienarten ist dies nicht möglich. Vollzeitstudenten dürfen nur maximal 20 Stunden in der Woche arbeiten (Minijob, Studentenjob, Nebenjob), um ihren Studentenstatus nicht zu verlieren.
Chắc hẳn không ít người trong chúng ta, nhất là những bạn đã ở Đức, đã không ít lần nghe thấy hoặc nhìn thấy những phản hồi như thế này từ người Đức: Wo bist du? – Ich bin arbeiten. Was machst du? – Ich bin gerade essen. Bản thân mình cũng đã có lần “chỉnh” bạn người Đức của mình vì nghĩ rằng đúng ra phải nói là: “Ich bin am Arbeiten”. Tuy vậy, khi nhìn thấy người thứ 2, thứ 3,… cũng nói như vậy, mình đã quyết định tìm hiểu xem, liệu đây có phải là một hiện tượng ngữ pháp mình chưa từng biết hay không. Và booom!! Đúng là như vậy! Hiện tượng ngữ pháp đó gọi là “Absentiv”. Absentiv là một hiện tượng ngữ pháp mà hành động được thể hiện thông qua việc sử dụng trợ động từ “sein” trực tiếp với một động từ nguyên thể khác. Bằng cách sử dụng Absentiv, người nói biểu đạt việc không có mặt của mình ở một địa điểm xác định trong văn cảnh cuộc nói chuyện. Động từ nguyên thể trong câu đóng vai trò là nguyên nhân giải thích cho sự vắng mặt đó. Do vậy, sự vắng mặt có thể được làm rõ bằng một bổ ngữ chỉ nơi chốn, nhưng không nhất thiết phải có (xem ví dụ phía dưới): Ich bin im Büro arbeiten Ich bin arbeiten Absentiv có thể xuất hiện ở ngôi thứ 3. Trong trường hợp này, thường thì chúng ta có khá nhiều cách hiểu về một câu nói. Trong ví dụ phía dưới, Nils có thể đang trên đường tới sân bóng đá, cũng có thể đang chơi bóng đá hoặc cũng có thể đang trên đường từ sân bóng đá trở về nhà (vào thời điểm cuộc hội thoại diễn ra): Wo ist der Nils? Der ist Fußball spielen. Tuy vậy, Absentiv hay gặp nhất là ở ngôi thứ 1, đặc biệt trong các cuộc nói chuyện thoải mái hàng ngày, giữa những người bạn, những người thân quen. Trong ví dụ phía dưới, chúng ta có thể nhận ra một cuộc nói chuyện điện thoại quen thuộc giữa 2 vợ chồng trong một gia đình: Wo bist du? Warum bist du nicht zu Hause? Ich bin gerade einkaufen. Trong nhiều trường hợp, người nói cũng sử dụng Absentiv để thể hiện một ý định trong tương lai gần: Und wie sieht es bei dir morgen aus? Na ja, ich bin dann mal wieder arbeiten! Chúng ta có thể so sánh Absentiv với thời Hiện tại tiếp diễn trong tiếng Anh (thời mà tiếng Đức không hề có), khi việc khẳng định sự vắng mặt của người nói vì bận làm một việc gì đó cũng có thể được coi là họ đang làm việc đó ngay lúc này. Tuy vậy, khác với Hiện tại tiếp diễn, không phải động từ nào cũng có thể được dùng cho Absentiv. Theo một số nghiên cứu về ngôn ngữ học, những động từ sau đây là những động từ thường được dùng nhất cho Absentiv với tỉ lệ tương ứng là: einkaufen (33,1%), essen (27,6%), arbeiten (8,6%), trinken (4,9%), spazieren (4,3%), tanzen (4,3%), spielen (3,7%), joggen/laufen (1,8%), kacken (1,2%), schwimmen (1,2%), (Mails) beackern, (Freunde) besuchen, duschen, (Platten) kaufen, kegeln, (Wäsche) machen, (Beeren) pflücken, pissen, putzen, (Hirsch) schließen, shoppen, surfen, telefonieren, zelten (mỗi từ 0,7%). Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
*Bài viết mang quan điểm cá nhân của tác giả* “Đối với mình, một người viết bài tốt không phải là một người viết được nhiều nhất những thứ mà người khác không biết, mà là một người sử dụng hiệu quả nhất những thứ mà hầu như ai cũng biết” Không chỉ riêng đối với tiếng Đức, việc soạn thảo một văn bản bất kì (ngoại trừ tin nhắn dùng cho việc nói chuyện với bạn bè, người thân,…) luôn là một thử thách cho hầu như tất cả mọi người, dù là bằng tiếng mẹ đẻ hay bằng một ngoại ngữ khác. Ở bài viết này, chúng ta sẽ cùng thảo luận xem, làm thế nào để có thể viết tiếng Đức tốt hơn. Về cơ bản, một bài viết tốt là một bài viết để cho người khác có thể ĐỌC ĐƯỢC. Điều này nghe qua có vẻ hết sức hiển nhiên, thậm chí hơi buồn cười. Tuy vậy, dù đã rất cố gắng, rất nhiều người viết tiếng Đức vẫn chưa thể thoát khỏi suy nghĩ “nâng tầm” bài viết thông qua từ vựng khó/hiếm hay những cách diễn đạt dài dòng và phức tạp. Sau đây, mình xin phép chỉ ra 6 điểm mình cho là quan trọng nhất khi viết một văn bản bất kì bằng tiếng Đức. 1. Dễ hiểu Điều đầu tiên và cũng là quan trọng nhất đối với mình chính là những thứ bạn viết ra cần phải dễ hiểu. Cái khó ở đây là: các bạn cần phải viết vừa đủ ngắn và đơn giản để khiến người đọc dễ dàng hiểu được điều bạn truyền tải, nhưng cũng phải vừa đủ dài để bài viết của bạn không bị đơn điệu quá mức. Sẽ rất khó để có thể đưa ra một số lượng từ vựng chung cho mọi trình độ, do mỗi trình độ sẽ luôn có những tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá. Tuy nhiên, ở mức độ sử dụng tiếng Đức như là ngoại ngữ (Deutsch als Fremdsprache), mình khuyên các bạn nên viết câu với độ dài trong khoảng từ 15-25 từ. Các bạn nên tránh sử dụng những từ đệm trong văn nói (mal, nun, einfach, doch,…). Ngoài ra, hãy cố gắng xây dựng nội dung chính trước tiên bằng ngôn ngữ cụ thể và trực diện nhất, đừng quá tham lam thêm vào quá nhiều thành phần bổ trợ trong một câu. Tiếng Đức bản thân nó đã khiến cho việc đọc hiểu trở nên khó khăn hơn các thứ tiếng khác (Nebensatz, trennbare Verben,…). Vì vậy, hãy cố gắng đừng gây thêm khó khăn cho người đọc nữa nhé các bạn! 2. Dễ đọc Điều tiếp theo và cũng quan trọng không kém, đó là bài viết cần phải dễ đọc. Và để làm được điều này, bài viết trước tiên phải không được mắc những lỗi cơ bản như: lỗi ngữ pháp, lỗi viết sai chính tả, lỗi sắp xếp trật tự các thành phần trong câu hay đơn giản là vi phạm quy tắc sử dụng dấu phẩy. Ngoài ra, việc lạm dụng danh từ hay các cụm Nomen-Verb-Verbindungen quá mức cũng là một tác nhân gây khó khăn cho việc đọc hiểu. Tùy vào đối tượng đọc bài viết của bạn cũng như mục đích của bài viết mà các bạn cũng nên chọn từ vựng cho phù hợp. Một ví dụ hết sức cụ thể ở bài thi tiếng Đức trình độ B2 của Goethe Institut: Rất nhiều bạn khi thi viết luôn cố gắng sử dụng những từ ngữ chuyên ngành cực khó và hiếm gặp. Việc sử dụng những từ này tuy không sai về mặt ngôn ngữ, nhưng lại sai ở việc hướng tới đối tượng người đọc, dù giám khảo có giỏi tiếng Đức mức nào hay thậm chí là người Đức. Hãy thử tưởng tượng nếu bạn không học kĩ thuật, cũng không thích kĩ thuật, mà phải đọc những cụm từ tiếng Việt kiểu như “tế bào quang điện” hay là “điện thế đẳng áp” thì bạn có hiểu gì không? Ngoài những điểm đã nêu ở trên, một bài viết dễ đọc còn là một bài viết sử dụng phong cách viết năng động, tươi mới. Đừng chỉ phân tích suông và dùng toàn các cấu trúc mang tính bị động để viết bài. Hãy đưa thêm vào nhiều hơn những câu mang tính chủ động, những nhận định, những câu hỏi mở, câu hỏi tu từ,… để làm bài viết sống động và sát với thực tế hơn. Hơn thế, việc kết hợp phong cách viết pha trộn giữa phân tích và nhận định cá nhân sẽ làm cho quan điểm của bài viết trở nên khách quan, và do đó, thuyết phục hơn. 3. Công thức AIDA AIDA là một từ ghép từ 4 từ tiếng Anh (Attention – Interest – Desire – Action), có nghĩa là: Thu hút – Thích thú – Khao khát – Hành động. Công thức AIDA được sử dụng rộng rãi trong tiếp thị và quảng cáo để mô tả các bước hoặc giai đoạn xảy ra từ thời điểm người tiêu dùng nhận thức được sản phẩm hoặc thương hiệu, trước khi họ thử sản phẩm hoặc đưa ra quyết định mua hàng. Thế nó có tác dụng gì trong một bài viết? Một yếu tố mà người viết thường bỏ qua đó là yếu tố cảm xúc của người đọc. Đừng chỉ quan tâm đến ngôn ngữ hay nội dung đơn thuần. Hãy khiến cho người đọc cảm thấy tò mò và thú vị bởi một đoạn mở bài đặc sắc, hãy khiến người đọc phải bật lên tiếng “Aha…” khi đọc bài của bạn và hãy là chính bạn, chứ đừng chỉ đi bắt chước người khác! Đối với mình, việc các bạn đưa vào bài viết những ý tưởng độc đáo hay những chi tiết tưởng tượng mới lạ cũng có giá trị không kém gì việc các bạn viết bài dựa trên lý thuyết lập luận cổ điển (chẳng hạn như việc sử dụng phép so sánh, ẩn dụ hay đưa các ví dụ dẫn chứng…). Nói đến đây, mình muốn đưa thêm một ví dụ nữa về quá trình đọc bài viết của các bạn ôn thi các kì thi B1 và B2, mục đích của hầu hết người học tiếng Đức tại Việt Nam. Có phải các bạn cũng đang như vậy hay không? Có phải các bạn cũng đang viết một đoạn mở bài “trăm lần như một” chép ra từ một quyển sách hay bắt chước từ một người cụ thể nào đó không? Nếu có thì đây chính là lúc để các bạn thay đổi rồi đấy! 4. Sợi chỉ đỏ Ở Đức, người ta có một khái niệm gọi là “der rote Faden” (sợi chỉ đỏ). Sợi chỉ đỏ được hiểu là một thứ dùng để dẫn đường xuyên suốt, có ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn trong một quá trình nào đó (giống với khái niệm “Mặt trời chân lý chói qua tim” trong thơ Tố Hữu xD). Khái niệm này cũng được người Đức sử dụng trong việc đánh giá bài viết, đặc biệt là những bài viết dài và mang tính hàn lâm cao. Càng viết dài và phức tạp, chúng ta càng cần có một cấu trúc bài viết cụ thể và khoa học để giúp cho người đọc không cảm thấy mất phương hướng sau khi đọc một loạt các nội dung liên tiếp. Để làm được điều này, hãy luôn luôn viết ra một “bản tóm tắt” ngắn tất cả các ý lớn mà bạn muốn viết, đồng thời phân tích các ý này ở dạng “từ khóa”. Công việc này tuy đơn giản, nhưng giúp chúng ta không sa đà vào những chi tiết không cần thiết. Hơn thế nữa, việc này còn giúp chúng ta biết được lỗ hổng trong lập luận hay trong kiến thức của mình nằm ở đâu để khắc phục, trước khi bắt tay vào viết từng câu cụ thể. 5. Những thứ quan trọng nhất luôn nằm phía trước! Theo các bạn, nhiệm vụ của một người viết bài là gì? Mình tin rằng, rất nhiều những kiến thức, thông tin mà các bạn mang lại cho người đọc cũng có thể được tìm thấy đâu đó ở nơi khác, trong một bối cảnh khác, với độ dài và phức tạp khác. Vậy tại sao chúng ta vẫn viết? Bởi vì nhiệm vụ của người viết là chọn lọc thông tin và đưa đến cho người đọc những thông tin phù hợp với nhu cầu của họ. Do đó, hãy luôn luôn đưa những thứ quan trọng nhất trong một bài viết lên phía trước. Điều này giúp người đọc nhanh chóng nắm được mục đích viết bài của bạn và có thể lựa chọn một góc nhìn hợp lý cho những luận điểm, phân tích của bạn ở các đoạn tiếp theo. 6. Những thứ hay nhất luôn nằm cuối cùng! Đương nhiên là bài viết nào cũng cần có một cái kết. Theo như mình quan sát, hầu hết các bạn chọn cách kết bài khá ngắn gọn bằng một câu tóm tắt hoặc chỉ đơn giản là tổng hợp lại các ý chính đã được nhắc đến trong bài. Điều này tuy không sai, nhưng như đã nói, nó quá đơn điệu và trở nên nhàm chán trong mắt người đọc, đặc biệt là các giám khảo chấm thi. Tương tự như mục 3, các bạn có thể đưa vào những ý tưởng mới mẻ để khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc. Cá nhân mình thì rất thích kết bài bằng cách tận dụng yếu tố “sợi chỉ đỏ”. Có nghĩa là mình sẽ đưa ra ở phần mở bài một yếu tố tạo liên kết và lặp lại/triển khai yếu tố đó ở phần kết bài. Một ví dụ đối với bài thi trình độ B2 của Goethe Institut, phần thi viết Forumsbeitrag: Mở bài: Thường các chủ đề của Forumsbeitrag đều là các vấn đề xã hội. Do đó, chúng ta có thể dùng cách đặt ra câu hỏi mở, kiểu như: “Câu hỏi đặt ra là, liệu sử dụng túi nylon có thật sự hợp lý hay không?” Kết bài: Sau khi phân tích và tổng hợp ý chính, chúng ta có thể nhắc lại hoặc trả lời câu hỏi ở phần mở bài. Ví dụ như: “Câu hỏi ở phần mở đầu như vậy đã có đáp án. Rõ ràng chúng ta không nên tiếp tục sử dụng túi nylon…” Nói tóm lại, cả 6 ý mình nêu ở trên đều dẫn tới cùng một hành động khi viết bài: Hãy luôn luôn đặt mình vào vị trí người đọc! Chỉ khi đó, các bạn mới có thể thật sự thoát khỏi những lo sợ rằng “Bài viết của tôi chưa tốt do tôi còn kém, do chưa đủ phức tạp, tôi còn biết ít từ,…”. Đối với mình, một người viết bài tốt không phải là một người viết được nhiều nhất những thứ mà người khác không biết, mà là một người sử dụng hiệu quả nhất những thứ mà hầu như ai cũng biết. Chúc các bạn thành công với các bài viết của mình! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Đức là một đất nước nổi tiếng với truyền thống làm món xúc xích. Theo báo Planetwissen thì Đức có tới hơn 1500 loại xúc xích khác nhau với 3 cách chế biến gồm: 1. Brühwürste – cách chế biến này gần như món giò của mình, nghĩa là dùng thịt và mỡ, xay nhỏ, nhồi vào ruột, có thể hun khói nóng trước (nhiệt độ từ 50-85°C, heißgeräuchert) rồi đem luộc, ví dụ có loại Wiener, Jagdwurst, Bierwurst, Lyoner, Leberkäse… 2. Kochwürste – nguyên liệu của loại xúc xích này hầu như được nấu chín trước, rồi mới đem nhồi vào ruột, lọ thủy tinh hoặc lon sắt, sau cùng lại đem nguyên cả “vỏ lẫn ruột” nấu chín hẳn lần nữa. Ngoài thịt thì trong Kochwurst đa phần còn có nội tạng như tiết, lưỡi, gan, ví dụ Leberwurst, Zungenwurst, Blutwurst, xúc xích kiểu thịt đông như Sülzwurst… 3. Rohwürste – đúng như cái tên thì đây là những loại xúc xích mà nhân của chúng còn sống, tương tự như món nem chua của Việt Nam. Các loại xúc xích này nhờ vào gia vị như đường và muối lên men rồi tự chín, sau khi “chín” có khi người ta còn đem treo lên để hun khói lạnh (kaltgeräuchert) – nghĩa là xúc xích hoặc giò được treo lên cao để từ từ ám khói của một số loại củi thơm từ trong lò bên dưới bốc lên ở nhiệt độ 15-25°C, cho đến lúc giò khô cứng, có thể để lâu, ví dụ Salami, Mettwurst, Teewurst, Landjäger, Schwarzwälder Schinken… * Ngoài ra còn có món xúc xích nướng mà ai đã được nếm một lần đều rất mê, tiếng Đức là Bratwürste. Đây thực chất là loại xúc xích Rohwürste và đa phần là Brühwürste chưa hun khói, gồm thịt xay nhuyễn trộn với các gia vị đặc trưng, khách mua về có thể đem rán/chiên hoặc nướng trên lò than, ăn kèm salad khoai tây (Kartoffelsalat) hoặc các loại salad khác…, ví dụ Thüringer/Nürnberger Rostbratwurst… ** Nhân bài viết kể về xúc xích Đức này, mình muốn chia sẻ với các bạn một trong những câu thành ngữ được dùng rất phổ biến tại Đức: Das ist mir wurst/wurscht!! Câu này có nghĩa tiếng Việt là “tôi không quan tâm/chẳng liên quan gì đến tôi cả/chẳng sao cả/có vấn đề gì đâu!!!” Có 2 cách giải thích cho thành ngữ này như sau: Một là vì cây xúc xích có 2 đầu giống nhau, cho nên bất cứ bạn muốn ăn từ đầu nào thì cũng tùy bạn thôi, chẳng ảnh hưởng đến ai cả, vẫn là ăn xúc xích thôi!!! Es ist eben “wurst”, egal wo man anfängt!! (Bắt đầu ở đâu thì vẫn là xúc xích thôi!) Cách giải thích thứ hai là thời xa xưa, các lò mổ đều chỉ dùng những phần thịt thừa hoặc không ngon để làm xúc xích. Chỉ là một món thịt trộn gia vị rồi nhồi thôi mà. Thế nên, nếu cứ được hỏi sẽ làm gì với phần thịt thừa thì các bác mổ lợn thường nói: In die Wurst damit!! (Tống hết vào xúc xích đi!!) Từ đó câu thành ngữ: “Mir ist es wurscht” cũng được dùng để nói khi ai đó không biết chính xác và cũng không quan tâm bản thân phải làm gì, xử sự ra sao, kiểu “mặc kệ đời”!! Một số câu đồng nghĩa: Das ist mir wurst/wurscht = Das ist mir sowas von egal! >>> Người ta còn nói: Das ist mir schnuppe / banane!! (Đều mang nghĩa: Tôi không quan tâm!!) Was du heute noch machst, ist mir schnuppe, ich gehe jetzt ins Kino. (Hôm nay ấy làm gì tớ cũng không quan tâm, tớ đi xem phim đây!) Er ist dem gegenüber völlig gleichgültig (Đối với chuyện đó anh ấy chẳng mảy may để ý) Mir ist wurst, ob du mir Orangensaft oder Apfelsaft servierst! (Đối với tôi thì bạn có cho tôi uống nước cam hay nước táo cũng được, không vấn đề!) Các thành ngữ, tục ngữ khác với từ “Wurst”: Es geht um die Wurst = Đã đến hồi quyết định / Đã đến hồi gay cấn. >>> Morgen geht es um die Wurst: Bei einer Niederlage kann er endgültig einpacken (Ngày mai sẽ bước vào hồi gay cấn: Bị thua thì anh ta có thể đóng gói ra về rồi) Alles hat ein Ende, nur die Wurst hat zwei = Tất cả đều có một kết thúc, chỉ cái xúc xích có hẳn hai! Verschwinde wie die Wurst im Spinde = Biến ngay khỏi đây! In der größten Not schmeckt die Wurst auch ohne Brot = Lúc đói kém nhất thì xúc xích không bánh mỳ cũng ngon. mit der Wurst nach der Speckseite werfen = thả con săn sắt bắt con cá rô tolle Wurst! = cách “khen mỉa mai” khi ta không quan tâm hay có hứng thú với ai hoặc cái gì >>> Schau, da vorne ist das blonde Mädchen aus deiner Klasse! / Na tolle Wurst!! Wurst wider Wurst = wie du mir, so ich dir Tác giả: Cẩm Chi
Khi học tiếng Đức, các bạn sẽ được làm quen với 2 loại động từ: Các động từ có cấu trúc đơn giản như: spielen (chơi), essen (ăn), schlafen (ngủ), gehen (đi), lernen (học), leben (sống), sterben (chết) v.v… Các động từ có cấu trúc phức tạp hơn như: begehen, entfernen, verlieben, aussterben, zerstören v.v… Nhóm thứ 2 là các động từ được ghép với các tiền tố, tiếng Đức gọi là Präfix – đó có thể là các trạng từ/tính từ như bereit-, fern-, gut-, statt- …, hoặc các tiểu từ không biến đổi (Partikel) như an-, ab-, be-, ver-, ge- … đi kèm trước một động từ, để nhấn mạnh hoặc thay đổi hoàn toàn nghĩa của động từ đó. Có những tiền tố được tách khỏi động từ khi sử dụng chúng trong câu, lại có những tiền tố luôn luôn phải “gắn chặt” với động từ. a. Các tiền tố có thể tách rời khỏi động từ (trennbare Präfixe) gồm:ab-, an-, auf-, aus-, auseinander-, bei-, ein-, empor-, entgegen-, entlang-, entzwei-, fern-, fest-, fort-, für-, gegen-, gegenüber-, heim-, hinterher-, hoch-, los-, mit-, nach-, neben-, nieder-, vor-, weg-, weiter-, zu, zurecht-, zurück-, zusammen-, da-, hin-, her- b. Tiền tố không thể tách rời động từ (nicht trennbare Präfixe) thì có:be-, ent-, er-, ver-, zer-, hinter-, miss-, fehl-, a-, de(s)-, dis-, ge-, im-, in-, non-, re-, un- c. Tiền tố có thể tách và không cần tách gồm:durch-, über-, unter-, um-, wider-, wieder- 5 tiền tố chính trong tiếng Đức là: be-, ent-, er-, ver- và zer- Mỗi một tiền tố này khi ghép với một động từ sẽ tạo ra hiệu ứng thay đổi hoặc tăng cường nghĩa gốc của động từ đó. Tùy theo ý nghĩa của chúng mà chúng ta sẽ dùng cho từng hoàn cảnh khác nhau. 1. Tiền tố be-: Chúng ta ghép tiền tố này với một động từ khi muốn nói rằng, chúng ta đang muốn áp dụng hành động đó vào người hoặc vật khác, hay đang sử dụng, thậm chí thay đổi vật gì đó qua hành động này. Ngoài ra, be- ghép với động từ còn miêu tả sự động chạm, chạm vào (người/vật gì), hoặc khi muốn lấy hành động đó làm chủ điểm, ví dụ: halten = cầm, nắm vật gì >>> behalten = (cầm quá chắc, không buông) giữ lại arbeiten = làm việc/lao động/hành nghề >>> bearbeiten = (làm việc một cách chi tiết, cụ thể) gia công chế biến, tiến hành/thực hiện, khai thác (zum Beispiel: ein Thema bearbeiten) lassen = để (việc gì đó xảy ra)/khiến (ai làm gì đó/khiến điều gì xảy ra) >>> belassen = để/giữ nguyên (không thay đổi trạng thái của người/vật hiện có) Mutter = người mẹ >>> bemuttern = (xử sự như một người mẹ) chăm sóc ai (quá mức) như một người mẹ legen = đặt/để, nằm xuống, giảm bớt (ví dụ: Der Wind legte sich) >>> belegen = chồng lên nhau/trải/rải/phủ lên trên, đăng ký tham gia làm gì, chiếm (vị trí)/lấy (chỗ) gehen = đi >>> begehen = đi vào (và săm soi tỉ mỉ), phạm lỗi/phạm tội (gì đó), cùng kỷ niệm (ngày lễ hoặc nhân dịp nào đó) fühlen = cảm thấy, cảm tưởng là >>> befühlen = (cảm nhận bằng cách) sờ mó, sờ xem (vật gì như thế nào) rühren = di chuyển/xê dịch, ngoáy lên, làm cảm động/khích động >>> berühren = sờ/chạm/động (vào ai), gợi mối thương tâm/làm cảm động (ai đó)/khiến ai đó phải suy nghĩ gründen = thành lập/cấu tạo, dựa vào/căn cứ vào/xuất phát từ >>> begründen = giải thích/giảng giải, chứng minh (là đúng) 2. Tiền tố ent- Tiền tố này ghép với động từ thường mang nghĩa “lấy đi/truyền đi/mang đi/dọn đi, giải phóng khỏi” (người/vật nào đó), đặc biệt khi đi kèm các từ mang ý “tiêu cực” như fliehen, leeren, fremd, nehmen … Nhưng nó cũng dùng để phủ định, thay đổi ngược lại động từ gốc hoặc bắt đầu/khiến nó xảy ra và thực hiện đến cùng (để kết thúc) hành động đó. Một số ví dụ: decken = che, phủ, bao phủ, che đậy >>> entdecken = biến thành nghĩa ngược lại là phát hiện ra/nhận ra/nhận thấy (kiểu như mở ra, để lộ ra) fliehen = (đang trên đường) chạy trốn//kommen = đến >>> entfliehen/entkommen = tạo ra nghĩa ngược lại và nhấn mạnh hơn là “đã trốn thoát” nehmen = lấy đi, giành lấy, chiếm lấy >>> entnehmen = lấy ra/rút ra/lấy trộm, rút ra (kết luận) Kraft = sức mạnh >>> entkräften (keine Kraft mehr) = làm suy yếu/làm nhụt/làm hao tổn/làm suy nhược, từ chối, bắt bẻ lại/phản bác lại springen = nhảy lên / stammen = có nguồn gốc, xuất xứ (từ) >>> entspringen / entstammen (von) = bắt nguồn (từ) Flamme = ngọn lửa >>> entflammen = (đột nhiên) bắt lửa, bùng cháy, thổi bùng lên (lòng nhiệt huyết) fern = xa, Ferne = nơi xa xôi >>> entfernen = lấy đi mất, rời đi leer = trống rỗng / leeren = làm rỗng, lấy hết/vét hết >>> entleeren = vét/làm cho cạn sạch (không còn gì), tháo/tiết hết ra, rút hết/đi ra bằng hết (đại tiện) ledig = chưa kết hôn/độc thân, một mình >>> entledigen = giải phóng/giải thoát khỏi cái gì, cởi đồ/quần áo ra (khỏi người), thực hiện một trách nhiệm 3. Tiền tố er- Là tiền tố không thể tách rời khỏi động từ gốc Mang nghĩa bị thay đổi khi phải chịu đựng hoặc chịu gánh nặng (erblassen = bị nhạt nhòa hẳn đi) / nói đến một hành động có mục đích (erbetteln = cầu xin) / nói đến cái chết hoặc hành động giết chóc (erstechen = đâm/giết bằng cách đâm một vật nhọn) / nói lên hành động đạt được điều gì đó (erfahren = thấy được, nghe được, biết được, trải qua) / kết hợp với động từ để nhấn mạnh sự lớn mạnh, trưởng thành (erwachsen = lớn lên / erstrecken = vươn lên, trải dài) 4. Tiền tố ver- Là tiền tố không thể tách rời khỏi động từ gốc Mang nhiều nghĩa như: tiêu cực hoặc khó khăn, làm khó (vd: verlaufen = đi lạc đường) / chỉ ra một hoạt động của vật thể (verschieben = đẩy qua) / dùng khi một vật A được gắn với vật B (vergolden = mạ vàng) / khi có sự thay đổi hoặc tàn phá (verschmelzen = pha trộn) / khi muốn nhấn mạnh một sai sót (da habe ich mich vertan = ôi tại tôi bị nhầm) / dùng khi có thay đổi lớn hoặc ảnh hướng lớn nào đó tác động lên thể xác hoặc tâm hồn (ich bin verliebt = tôi đang yêu) Nhưng đôi khi tiền tố này cũng không thay đổi động từ gốc nhiều lắm (verbringen = dành thời gian) 5. Tiền tố zer- Đây là tiền tố không thể tách rời khỏi động từ gốc Tiền tố zer- nhấn mạnh thêm nghĩa “chia cách/chia cắt”/”tách ra”/”tan rã” hoặc “phá hủy” Đồng nghĩa với 2 tiền tố auseinander- và entzwei- Ví dụ: Es zerreißt mir das Herz (zerreißen) = Điều đó làm tan nát trái tim tôi Die Vase fiel vom Regal und zerbrach (zerbrechen) = Lọ hoa đã rơi khỏi giá và vỡ tan Umweltschützer kritisieren die Tüten vor allem deshalb, weil sie der Kunststoff Polyethylen sich nicht zersetzt = Những nhà bảo vệ môi trường chỉ trích đầu tiên là loại túi ni-lông, bởi chất nhựa Polyethylen (có trong đó) không tự phân hủy được. Tác giả: Cẩm Chi
Những người ngồi nhiều khi làm việc sẽ dễ bị áp lực, căng thẳng và mất tập trung. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu làm sao để vừa có một ngày làm việc hiệu quả lại vừa có thể rèn luyện sức khỏe nhé. Liệu bạn có biết rằng mình đã đi bao nhiêu bước một ngày? Đặc biệt nếu bạn có một công việc văn phòng, con số ấy chưa chắc lên nổi 2.000 bước, trong khi số bước chân lí tưởng mà một người cần mỗi ngày là ít nhất 10.000 bước. Tuy nhiên, các vấn đề về cơ do ngồi liên tục và thiếu vận động chỉ là hai trong nhiều yếu tố có thể dẫn đến mệt mỏi, căng thẳng và những cơn đau ở các bộ phận cơ thể. Với bảy lời khuyên sau đây, bạn có thể đạt được hiệu suất làm việc cao hơn, nhiều động lực hơn cũng như hạn chế thời gian “chết” khi làm việc! CÂN ĐỐI VÀ KHỎE MẠNH NƠI CÔNG SỞ – CÙNG BẮT ĐẦU THÔI NÀO! 1. Tăng cường vận động trên chính con đường đi làm hàng ngày Bạn có thể rèn luyện nhờ vào chính con đường đi làm quen thuộc. Đầu tiên bạn có thể chọn đạp xe thay vì đi ô tô hay các phương tiện công cộng để đi làm. Hoặc đơn giản hơn bạn có thể chọn cách xuống xe sớm trước khoảng 1 bến và đi bộ nốt quãng đường còn lại. Điều này giúp việc tuần hoàn trong cơ thể được lưu thông và cung cấp thêm oxy cho cơ thể. 2. Thường xuyên đứng dậy Đôi lúc việc ngồi lì trong 1 giờ đồng hồ là đủ khiến bạn cảm thấy mệt mỏi. Vì vậy, bạn cần đứng dậy di chuyển nhẹ nhàng. Ví dụ như thay vì nhờ đồng nghiệp lấy giùm ly cà phê thì bạn có thể tự mình đi lấy. Ngoài ra bạn có thể vừa đứng vừa gọi điện thoại trong văn phòng hoặc đứng họp với đồng nghiệp thay vì cứ mãi ngồi im. 3. Sắp xếp thời gian nghỉ trưa hợp lý Việc rời công việc để dành thời gian cho bữa trưa đôi khi cực kì khó khăn. Tuy vậy, các quãng nghỉ là rất quan trọng và đặc biệt, thời gian nghỉ trưa đóng vai trò thiết yếu để lấy lại sự tỉnh táo cũng như giúp bạn “sạc pin” cho nửa ngày làm việc còn lại. Chính vì vậy, nếu có khả năng, bạn nên thử đi dạo xung quanh và đổi gió bằng việc thưởng thức bữa trưa trong một nhà hàng gần đó hay đơn giản là trên một băng ghế nào đó trên đường đi dạo. 4. Bổ sung năng lượng bằng chế độ dinh dưỡng thích hợp Lí tưởng hơn cả là bạn có thể tự chuẩn bữa ăn của mình bằng nguyên liệu tự mua và sử dụng hộp cơm hữu cơ không chứa hóa chất BPA độc hại. Chỉ khi tự mình nấu nướng, bạn mới biết được chính xác trong đó chứa những chất dinh dưỡng và Vitamine cần thiết nào và sẽ không chỉ vì tiện lợi mà tìm đến Pizza, Döner, khoai tây chiên và các loại đồ ăn nhanh khác. Các loại hạt, đặc biệt là hạt óc chó, rất giàu protein, khoáng chất và chất xơ giúp cung cấp năng lượng nhanh chóng, vô cùng lý tưởng để sử dụng làm món ăn nhẹ giữa các bữa ăn. Táo cũng là lựa chọn tuyệt vời với hàm lượng đường thấp và không gây tăng đường trong máu quá nhanh. Ngoài ra, sữa chua Hy Lạp có thể giúp bạn no nhanh hơn và ngăn chặn cảm giác thèm ăn. 5. Tập các bài tập đơn giản ngay tại văn phòng để thư giãn Ngồi nhiều, làm việc trên máy tính lâu và áp lực sẽ càng khiến bạn rơi vào căng thẳng, đặc biệt vùng cổ và vai thường bị ảnh hưởng. Điều này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đau đầu. Các bài tập ngắn và đơn giản có thể giúp bạn thả lỏng hơn. Các bạn có thể thực hiện vài động tác như xoay tròn đầu và vai, ngồi thẳng lưng dang ngang hai tay, đẩy vai ra sau và giữ yên tư thế khoảng hai đến năm giây mỗi lần. 6. Hít thở đúng cách Các bài tập thở cũng có thể làm giảm áp lực và giải tỏa căng thẳng. Thông thường khi hô hấp, chúng ta chỉ sử dụng một phần của phổi. Tuy nhiên, những người sử dụng toàn bộ cơ hoành có thể mang lại hiệu quả tích cực đến sức bền và thể chất cơ thể. Một bài tập hít thở phổ biến là bạn có thể hít một hơi sâu, giữ nguyên trong 10 giây rồi sau đó chậm rãi thở ra trong mười giây và cứ thế lặp lại tương tự với các lần sau. Ngoài ra, một tràng cười thật sảng khoái cũng có thể làm giãn cơ hoành. 7. Uống nước đầy đủ Nước là một nhân tố không thể thiếu của một lối sống lành mạnh. Vì vậy, bạn cần uống nhiều nước hoặc trà không đường trong giới hạn nhất định, đồng thời tránh xa các loại nước ngọt có ga nhiều đường. Lượng nước tối thiểu bạn nên uống là 1,5 lít/ngày. Uống đủ nước mỗi ngày còn giúp bạn tránh xa những cơn đau đầu nữa. Chuyển dịch: Quỳnh Trang Minh họa: Bích Diệu Bài viết gốc với tiêu đề “7 Tipps: Fit und gesund am Arbeitsplatz” được đăng trên https://so-gesund.com/7-tipps-fit-und-gesund-am-arbeitsplatz/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Wer in seinem Job viel sitzt, leidet oft unter Verspannungen, Müdigkeit und Konzentrationsschwierigkeiten. So kommen Sie fit und gesund durch den Arbeitstag Wissen Sie, wie viele Schritte Sie pro Tag gehen? Wenn Sie einen Bürojob haben, kann es sein, dass Sie nicht mal auf 2.000 kommen. Ideal sind jedoch mindestens 10.000 Schritte täglich. Doch die einseitige Belastung der Muskulatur durch permanentes Sitzen und mangelnde Bewegung sind nur zwei Faktoren, die zu Müdigkeit, Verspannungen und Schmerzen führen können. Mit diesen sieben Tipps erlangen Sie mehr Leistungsfähigkeit, Motivation und weniger Ausfallzeiten im Büro! FIT UND GESUND IM BÜRO – SO GEHT’S! 1. Aktiv zur Arbeit Bereits der Weg zur Arbeit kann Ihnen helfen, fitter durch den Tag zu kommen. Schwingen Sie sich aufs Rad, anstatt das Auto oder die öffentlichen Verkehrsmittel zu benutzen. Oder steigen Sie zumindest eine Station früher aus, und gehen den Rest zu Fuß. So kommt Ihr Kreislauf in Schwung, und Ihr Körper wird mit Sauerstoff versorgt. 2. Regelmäßig aufstehen Manchmal reicht schon eine Stunde Sitzen aus, um sich eingerostet oder müde zu fühlen. Hier hilft regelmäßige Bewegung. Lassen Sie Ihren Kaffee nicht vom Kollegen mitbringen, sondern stehen Sie selbst auf, drehen beim Telefonieren eine Runde im Büro oder halten das nächste Meeting mit Ihren Kollegen einfach mal im Stehen ab. 3. Mittagspause richtig gestalten Die Versuchung, mittags am Schreibtisch sitzen zu bleiben, ist manchmal sehr groß. Doch Unterbrechungen sind wichtig und gerade die Mittagspause ist essenziell um den Kopf wieder frei zu kriegen und neue Energie für die zweite Hälfte des Tages zu tanken.Deshalb: Wenn es die Möglichkeit gibt, gehen Sie auf jeden Fall raus, drehen eine Runde um den Block, und setzen Sie sich zum Essen in ein Restaurant oder auf eine Bank. 4. Power durch richtige Ernährung Im Idealfall haben Sie am Abend zuvor mit gesunden, regionalen Zutaten gekocht und sich eine Portion in einer BPA-freien Box mitgebracht. So wissen Sie genau, was drin ist, führen Ihrem Körper wichtige Nährstoffe und Vitamine zu und landen am Ende nicht doch aus Bequemlichkeit bei Pizza, Döner, Pommes und Co. Optimal als Snack für Zwischendurch sind Nüsse, insbesondere Walnüsse, die reich an Proteinen, Mineral- sowie Ballaststoffen sind und schnell Energie liefern. Auch Äpfel eignen sich hervorragend und lassen durch ihren geringen Zuckergehalt den Blutzuckerspiegel nur langsam steigen. Griechischer Joghurt sättigt schnell und beugt Heißhungerattacken vor. 6. Einfache Büroübungen zur Auflockerung Viel Sitzen, Schreiben am Rechner und Stress fördern Verspannungen. Besonders der Nacken- und Schulterbereich ist davon oft betroffen. Nicht selten resultieren daraus Kopfschmerzen. Kurze und einfache Übungen können Linderung schaffen. Hierfür den Kopf und die Schultern kreisen lassen sowie in geradem Sitz mit waagerecht ausgestreckten Armen die Schultern nach vorn und hinten schieben und jeweils circa zwei bis fünf Sekunden halten. 6. Richtig atmen Auch Atemübungen können Stress abbauen und Verspannungen lösen. Oft atmen wir nur in einen Teil der Lunge. Wer jedoch das ganze Zwerchfell benutzt, kann dadurch seine Ausdauer und körperliche Energie positiv beeinflussen. Tief ein- und ausatmen sowie 10 Sekunden lang schnelles Ein- und Ausatmen sind beliebte Übungen. Aber auch ein herzhafter Lachanfall kann die Muskulatur des Zwerchfells entspannen. 7. Ausreichend trinken Trinken ist essenziell für eine gesunde Lebensweise. Dabei sollten Sie sich auf Wasser oder ungesüßten Tee beschränken und von zuckerhaltigen Softdrinks lieber die Finger lassen. Trinken Sie in regelmäßigen Abständen circa 1,5 Liter über den Tag verteilt. Auch bei Kopfschmerzen kann Flüssigkeitszufuhr Abhilfe schaffen