Ai trong chúng ta thì cũng đều có nhu cầu sử dụng thời gian rảnh cho mục đích cá nhân cũng như thiết kế việc này một cách hợp lý. 1. Nguyên liệu cho nhà xưởng, đồ thủ công và hội hoạ Đây là một hoạt động mang tính sáng tạo, phù hợp với mọi lứa tuổi và hoàn toàn có thể tự thực hiện. Nhờ sở thích này, chúng ta còn có thể hình thành và cải thiện khả năng làm đồ handmade của bản thân. Đối với trẻ em và trẻ vị thành niên, đây là một sự thay thế lành mạnh cho việc sử dụng đồ công nghệ trong thời gian rảnh. Tương tự đối với người lớn, những người tìm thấy sự thư giãn và bình yên bằng việc tạo ra các loại vật dụng, trang sức hay đồ nội thất. Nếu như trước đây hoạt động làm đồ thủ công chỉ giới hạn trong việc thêu, may hay đan, thì ngày nay chúng ta có vô số sự lựa chọn. Nguyên liệu cơ bản cho những món đồ handmade rất dễ kiếm và việc lựa chọn nguyên liệu như đất sét, gỗ, thủy tinh, da, pha lê, len, giấy, hay bìa carton thật sự không có giới hạn nào cả. Chỉ cần thẩm mỹ cá nhân, một chút kiên nhẫn và một chút bay bổng là chúng ta có thể tạo ra những sản phẩm tuyệt vời, những thứ mà bạn có thể tự hào khoe với bạn bè hay sử dụng làm quà tặng đặc biệt. 2. Nhạc cụ Tạo ra âm nhạc được coi là một thành tựu văn hóa của nhân loại từ rất lâu trước đây. Trong chiều dài hàng ngàn năm lịch sử, loài người đã tạo ra rất nhiều loại nhạc cụ mang tính địa phương, vượt ngoài ranh giới đó và thậm chí mang tầm thế giới, một phần không nhỏ trong số đó vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Trong khi kèn alphorn chỉ xuất hiện rất ít ở một số nơi, thì đàn violin đã có mặt ở khắp mọi nơi. Một số người yêu thích việc thưởng thức âm nhạc thông qua các hình thức phát nhạc hay ở trong những buổi hòa nhạc. Một số người lại cảm thấy vô cùng hào hứng với việc được sáng tạo trong lúc học chơi nhạc cụ. Để có thể chơi nhạc cụ một cách hoàn hảo, rõ ràng ta cần hòa mình vào âm nhạc hoặc có khả năng sử dụng nó để thể hiện cảm xúc cá nhân. Với vô vàn các sự lựa chọn, mỗi người đều có thể tìm được sở thích cho riêng mình: Nhạc cụ hơi Nhạc cụ dây Nhạc cụ có phím Nhạc cụ gảy Nhạc cụ gõ Nhạc cụ điện tử 3. Thú nuôi Ngày nay, thú nuôi vô cùng được yêu thích, dù là chó, mèo, chuột bạch, chuột hamster, chim hay cá. Và điều quan trọng nhất khi nuôi thú cưng chính là việc bạn phải luôn để ý đến nhu cầu của chúng. Thú cưng không phải là một món đồ dễ dàng mua về khi người chủ nổi hứng. Chúng thật sự cần sự quan tâm và trách nhiệm. Để nuôi một con vật, bạn cần hiểu rất rõ về những thói quen đặc trưng của chúng. Những người thích hoạt động ngoài trời rất phù hợp cho việc nuôi chó, loài thường xuyên cần những hoạt động thể chất. Một số loài động vật “độc” và “lạ” có thể sẽ không phù hợp với môi trường sống của chúng ta và đôi khi cần sự chăm sóc đặc biệt như việc cần sưởi ấm hay một không gian sống phù hợp với loài đó. 4. Trò chơi / Đồ chơi Những trò chơi tập thể hay boardgame có thể thúc đẩy khả năng giao tiếp, mở rộng kiến thức và nâng cao trí tưởng tượng. Những món đồ chơi luôn đồng hành cùng các đứa trẻ trong quá trình trưởng thành của chúng. Chúng ta nên mua hoặc tặng đồ chơi cho trẻ theo tiêu chí “chất lượng hơn số lượng”. Hạn chế sử dụng đồ nhựa và ưu tiên những món đồ từ nguyên liệu thô. Quy trình sản xuất đồ chơi cần thân thiện môi trường và không độc hại, còn màu sắc phải dựa trên sở thích của trẻ em. 5. Nhóm hay câu lạc bộ thể thao Một trong những hoạt động có ý nghĩa và tốt cho sức khỏe nhất trong thời gian rảnh chính là vận động thể chất để cân bằng, đặc biệt đối với những người làm công việc cần ngồi nhiều hay ít vận động. Thi đấu thể thao không phải sự lựa chọn hàng đầu, thay vào đó là niềm vui khi được chơi thể thao, bất kể là môn cá nhân hay môn tập thể, trong một câu lạc bộ hay trong một nhóm. Mỗi người có thể lựa chọn địa điểm tập thể thao tùy thuộc vào nhu cầu cá nhân và nhu cầu hoạt động như trung tâm thể dục, câu lạc bộ bóng đá, chạy bộ, đi bộ hoặc bơi lội. Những môn thể thao không ảnh hưởng hay gây hại đến môi trường rõ ràng cần được ưu tiên hơn. 6. Sự kiện văn hóa Những sự kiện văn hóa đem lại cho chúng ta vô vàn những món ăn tinh thần. Nhờ vào sự đa dạng và dễ tiếp cận của các chương trình văn hóa, ta có thể dễ dàng đi đến những buổi hòa nhạc cổ điển hay rock, xem những vở kịch hay những buổi trình diễn, đi thăm bảo tàng, triển lãm và thậm chí là đến những buổi đọc sách ở không quá xa so với nơi chúng ta ở. 7. Đi du lịch / Đi bộ dã ngoại “Tại sao phải đi xa trong khi chúng ta đang ở ngay gần những điều tốt đẹp?”. Những người muốn bảo vệ thiên nhiên, môi trường và khí hậu sẽ luôn ưu tiên những chuyến du lịch bền vững. Tại chính nơi bạn đang sinh sống có vô vàn những điều mới lạ đang chờ đón và sẽ tạo ra những giá trị quý giá đóng góp cho ngành du lịch trong nước đấy. 8. Khách sạn / Nhà hàng Các dịch vụ nghỉ dưỡng, khách sạn, nhà hàng cho phép chúng ta thoát khỏi guồng quay của cuộc sống thường nhật và cho chúng ta cơ hội thư giãn. Tại đây, các bạn sẽ có cơ hội được thư giãn và để tâm trí thật thảnh thơi và thả lỏng. Trong ngành công nghiệp kinh doanh dịch vụ thư giãn này, chúng ta có thể tiết kiệm rất nhiều năng lượng mà không cần hi sinh sự thoải mái. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đã góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên bằng cách tận dụng nhiệt lượng thừa từ các nhà bếp, phòng tắm và khu vực chăm sóc sức khỏe cũng như luôn chú ý tuân thủ các quy tắc nghiêm ngặt về năng lượng khoáng, sử dụng năng lượng tái tạo và ưu tiên các sản phẩm nội địa. Chuyển dịch: Huyền Yến Minh hoạ: Diệu Bích ——————————————————————————————————————————————————– Bài viết gốc với tiêu đề “Möglichkeiten der Freizeitgestaltung” được đăng trên https://www.gesundes-haus.ch/freizeitgestaltung/moeglichkeiten-der-freizeitgestaltung.html. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Jeder hat das Bedürfnis seine Freizeit individuell zu verbringen und zu gestalten. 1. Werk-, Bastel- und Malmaterial Eine kreative und manuelle Beschäftigung, die für alle Altersgruppen geeignet ist. Ein Hobby, bei dem sich spielerisch handwerkliche Fähigkeiten entwickeln und ausbauen lassen. Es ist für Kinder und Jugendliche als Alternative zum elektronisch geprägten Freizeitverhalten genauso geeignet wie für Erwachsene, die bei der Herstellung von Gegenständen, Schmuck oder gar Möbelstücken Entspannung und Befriedigung finden. Waren früher die Handarbeiten oft auf Sticken, Stricken und Häkeln beschränkt, ist die Auswahl heute breiter gefächert. Grundstoffe für Bastelarbeiten sind leicht zu beschaffen und der Materialauswahl – Ton, Holz, Glas, Perlen, Leder, Wolle, Papier oder Pappe, um nur einige zu nennen – sind kaum Grenzen gesetzt. Persönliches Geschick, Geduld und Phantasie führen dann zu vorzeigbaren Ergebnissen, die stolz präsentiert werden oder als individuelle Geschenke Verwendung finden können. 2. Musikinstrumente Musik machen ist eine sehr frühe kulturelle Errungenschaft der Menschheit. Im Laufe von vielen tausend Jahren haben sie regional, überregional und weltweit die verschiedensten Instrument herausgebildet, die sich zum Teil bis heute durchgesetzt haben. Während das Alphorn nur sehr begrenzt vorkommt, ist die Geige in allen Ländern zu finden. Die einen bevorzugen den passiven Musikgenuss durch Tonträger oder bei Konzerten, die anderen finden es spannend selber kreativ zu sein und ein Instrument zu erlernen. Sei es, um möglichst perfekt spielen zu können, in der Musik zu versinken oder Gefühle damit auszudrücken. Jeder Interessierte wird bei der grossen Auswahl an Instrumenten das für sich geeignete finden: Blasinstrumente Streichinstrumente Tasteninstrumente Zupfinstrumente Schlaginstrumente elektronische Instrumente 3. Haustiere Hund, Katze, Meerschweinchen, Hamster und Vögel, Aquarium oder Terrarium – Haustiere sind beliebt. Wichtig ist bei der Tierhaltung immer, dass die Bedürfnisse des Tiers berücksichtigt werden. Haustiere sind keine Gegenstände, die man vorwiegend dann hervorholt, wenn man gerade Lust darauf hat. Sie benötigen Fürsorge und Verantwortungsbewusstsein. Bei der Anschaffung eines Haustiers muss man sich über seine ureigensten Gewohnheiten im Klaren sein. Wer sich sehr gern in freier Natur bewegt, ist mit einem Hund, der regelmässigen Auslauf braucht, gut bedient und kann die Beziehung zu seinem Haustier geniessen. Exotische Tiere passen sich oftmals nicht an unser Klima an und benötigen deshalb besondere Pflege, wie beispielsweise zusätzliche Heizenergie oder artgerecht eingerichtete Lebensräume. 4. Spiele / Spielzeuge Gemeinschaftsspiele und Brettspiele fördern die Kommunikation, erweitern das Wissen und beflügeln die Phantasie. Spielzeuge begleiten schon die Kleinkinder auf ihrem Weg zum Erwachsenen. Lieber weniger, dafür aber qualitativ hochwertiges Spielzeug kaufen oder verschenken. Auf Kunststoffe wo es geht verzichten und besser auf Spielwaren aus nachwachsenden Rohstoffen zurückgreifen. Die Verarbeitung, die Endbehandlung und die Farben sollen im Interesse der Kinder und der Umwelt naturbelassen und giftfrei sein. 5. Sportvereine, Sportgruppen Körperliche Betätigung als Ausgleich besonders zu sitzender oder bewegungsarmer Tätigkeit im Berufsleben, ist eine gesunde und sinnvolle Freizeitbeschäftigung. Nicht der Hochleistungssport sollte hier an erster Stelle liegen, sondern der Spass sich, alleine oder mit anderen zusammen, in einem Verein oder einer Gruppe sportlich zu betätigen. Ob Fitnesscenter, Fussballverein, Laufen, Nordic Walking, oder Schwimmen, je nach Bedürfnis und Bewegungsdrang ist für jeden etwas dabei. Sportarten, die weder die Natur beeinträchtigen noch Umweltschäden nach sich ziehen, sind hier zu bevorzugen. 6. Kulturelle Veranstaltungen Geistige Nahrung und Erbauung bieten vielfältige Veranstaltungen auf den breit gefächerten Kultursektor. Konzerte von Klassisch bis Rock, Theater, Kleinkunstbühnen, Museumsbesuche, Ausstellungen und Lesungen werden dank einer breiten kulturellen Szene oft in unmittelbarere Nähe vom Wohnort angeboten. 7. Reisen / Wandern “Warum denn in die Ferne schweifen, das Gute lieget doch so nah.” Wer die Natur, die Umwelt und das Klima schont, bevorzugt den sanften Tourismus. In der eigenen Region gibt es immer wieder Neues zu entdecken und die Wertschöpfung geht an die heimische Tourismusindustrie. 8. Hotel / Restaurant Wellness, Hotellerie und Gastronomie erlauben Auszeiten von Alltag, bieten die Chance sich zu entspannen und die Seele baumeln zu lassen. Gerade in diesem Bereich der Freizeitindustrie lässt sich ohne Komforteinbussen viel Energie einsparen. Betriebe, die Energie aus der anfallenden Abwärme der Küchen, Bäder und Wellnessbereiche zurückgewinnen, Minergiestandards einhalten, auf erneuerbare Energien setzen und bevorzugt regionale Produkte auf den Tisch bringen, tragen zu einem Ressourcen schonenden Umgang mit der Natur bei.
Yearly Archives: 2021
Sau khi đã xem rất rất nhiều bài viết được gửi về page, tôi rút ra một kết luận như sau: Phần đông các bạn học tiếng Đức hiện nay chưa hiểu lắm về cách viết của người Đức. Ở bài viết này, tôi không muốn đề cập đến các vấn đề ngữ pháp, chọn từ hay là những vấn đề quá cao siêu như là „Trình độ tầm B,C thì phải viết kiểu này!“. Thay vào đó, tôi muốn đề cập đến những sai lầm mà các bạn thường gặp phải khi hình thành một câu cũng như phương án tôi gợi ý để giúp các bạn tránh mắc phải những sai lầm đó. Bài viết dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả và hướng đến đối tượng là những bạn học „Deutsch als Fremdsprache“ nên sẽ không thể đảm bảo tính khách quan và tổng quát. 1. Vấn đề với thành phần thứ hai của một động từ: Trong tiếng Đức, có rất nhiều trường hợp mà một hành động (Prädikat) được cấu thành bởi nhiều thành phần và một trong số đó sẽ bị tách ra và xuất hiện ở cuối câu. Ich fange heute mit dem Lernen an. Ich habe heute die Hausaufgaben gemacht. Ich wurde von dem Hauptbahnhof abgeholt. Rõ ràng, chúng ta cảm thấy khá dễ chịu khi đọc những câu trên. Thế còn một câu như thế này thì sao? Ich bin, nachdem ich meine Sachen gepackt und mein Auto getankt hatte, mit meinen Freunden, dem Onkel meiner Tante und dem Dackel von nebenan auf der Laderampe eines verrosteten Pickups gefahren. Tổng cộng là 28 từ cho đến khi người đọc biết cụ thể thành phần chính của câu là gì. Không ai muốn đọc hết cả một đống thông tin bổ trợ, quên quá nửa rồi, mới đọc đến hành động chính của câu, phải không? Giải pháp: Hãy cố gắng viết không quá 10 từ ở giữa 2 thành phần của Prädikat! Với các bạn trình độ cao hơn và buộc phải viết 1 câu dài hơn, hãy cố gắng nghĩ đến cảm nhận của người đọc và tìm cách khác để diễn đạt hoặc đơn giản là cắt ngắn ý dài của các bạn ra cho dễ nhìn nhé! 2. Vấn đề với độ dài và phức tạp của câu: Có hai kiểu người viết bài: Kiểu thứ nhất là những người viết với mong muốn người đọc hiểu được mình muốn thể hiện điều gì. Kiểu thứ hai là những người viết với mong muốn gây ấn tượng với người đọc bằng những từ/cụm từ khó và cách viết phức tạp. Với tâm lý học để thi rất phổ biến ở Việt Nam, rất nhiều bạn, theo tôi thấy, đang rơi vào kiểu thứ hai. Nếu bạn là một người đang cần học gấp để thi cho xong, tôi khuyên bạn nên dừng đọc ở đây! Đây là ví dụ được trích từ một bài viết tôi từng chữa: Als begeisterte Reisende bin ich persönlich den Fluggesellschaften dankbar dafür, dass sie sich in die Lage der Kunden hineinversetzt haben, daher bieten sie uns viele Billigfluglinien an, mit denen wir viele Chancen haben, die Welt zu entdecken. Cảm giác đầu tiên của tôi là quên béng đoạn đầu nói về cái gì khi đọc đến những chữ cuối cùng. Tôi đã chữa lại câu trên như thế này: Als eine begeisterte Reisende bin ich den Fluggesellschaften sehr dankbar dafür, dass sie stets an Kunden denken. Daher bieten sie uns viele Billigfluglinien an, mit denen wir mehr Chancen zur Weltentdeckung haben. Nếu để tôi tự viết câu này, thậm chí tôi còn viết khác hơn nữa: Den Kundenservice der Fluggesellschaften halte ich für ausgezeichnet. Für sie stehen Kundenwünsche stets im Vordergrund. Daher stehen die sogenannten „Billigfluglinien“ seit einer Weile zur Verfügung. Mit diesen Angeboten kann man die Weltentdeckung sicherlich besser realisieren. Giải pháp: Nếu bạn viết 1 câu mà bạn không thể đọc nó trong vòng một hơi thở thì chắc chắn là câu đó quá dài rồi. Thành thật mà nói, dù là đi thi thì giám khảo chấm thi cũng là con người và họ cũng có tâm trạng. Đừng để họ phải vắt óc suy nghĩ xem: „Cô/cậu này đang viết cái gì đây vậy nhỉ?“! Điều đó chỉ làm ảnh hưởng đến điểm số cuối cùng của các bạn mà thôi! Hơn nữa thì, theo kinh nghiệm của tôi, người Đức chuộng sự đơn giản và chính xác, hơn là dài dòng và văn hoa. Thế nên, lời khuyên của tôi là hãy suy nghĩ đơn giản thôi và hãy viết giống như khi bạn nói ấy! (ý tôi là độ dài thôi nhé) 3. Vấn đề với những thành phần bổ trợ: Tiếng Đức có những công cụ tuyệt vời giúp ích cho việc phá đám việc đọc hiểu của người đọc. Hãy lưu ý rằng, những thứ „đúng ngữ pháp“ thì chưa chắc đã hợp lý hoàn toàn đâu nhé! Những ví dụ mà các bạn đều biết đó là những từ như „neben“, „obwohl“ hay „nachdem“. Để hiểu rõ hơn ý của tôi, hãy cùng tham khảo ví dụ sau đây: Neben den vielen kleinen Tätigkeiten, die ab und wann mal für den Hausmeister während seiner Nachtschicht anfielen, obwohl nachts eigentlich nicht so viel los war, spielte er gerne Karten. Như các bạn có thể thấy, cái mà người viết muốn hướng tới phải đọc đến tít cuối câu mới thấy, và nó chỉ ngắn gọn là „Der Hausmeister spielte gerne Karten“!! Dưới đây là một ví dụ khác đơn giản hơn một chút: Nachdem Kobe sein Abitur gemacht hatte, zog er nach Deutschland Trông thì có vẻ không có vấn đề gì lắm nhưng tốt hơn nên viết là: Kobe machte sein Abitur und zog nach Deutschland Giải pháp: Ở Việt Nam, chúng ta đã quá quen với việc „rào đón“ kĩ lưỡng, trình bày hết thiệt hơn, rồi mới đi vào vấn đề chính. Ngược lại, người Đức thích đi thẳng vào vấn đề trước, rồi tất cả những thứ dùng để diễn giải, bổ trợ sẽ được trình bày sau. Thế nên, các bạn hãy tập cách diễn đạt „direkt auf den Punkt“ nhé! 4. Vấn đề với câu phụ (Nebensatz): Khi học tiếng Đức đến một trình độ nhất định, hẳn các bạn sẽ được nghe những lời khuyên kiểu như: „Tầm này rồi phải cố mà viết Nebensatz đi chứ ai lại viết Hauptsatz nữa!“. Đúng vậy, Nebensatz là một đặc sản thực sự của tiếng Đức! Làm thế nào người ta có thể nghĩ ra việc vứt động từ xuống cuối câu được cơ chứ? Thật sự, bản thân tôi cũng đã từng rất tự hào khi có thể nói được đúng Nebensatz mà không cần ngập ngừng suy nghĩ nhiều. Tuy nhiên, có thật là chỉ có sử dụng Nebensatz mới chứng minh được trình độ tiếng Đức của chúng ta hay không? Hãy cùng tham khảo ví dụ sau đây: Wissen ist nicht genug; wir müssen es anwenden. Der Wille ist nicht genug; wir müssen handeln. Vâng, đó là 4 Hauptsätze liên tiếp thưa các bạn. Rất rõ ràng, rất dễ đọc! Và đoạn trích trên được viết bởi đại văn hào Đức Johann Wolfgang von Goethe, cái người được lấy cảm hứng đặt tên cho chỗ các bạn học tiếng Đức đấy! Theo tôi, chúng ta chỉ dùng Nebensatz khi muốn đưa ra những thông tin bổ sung, chứ không phải là để đưa ra thông tin chính. Ví dụ như câu sau đây: Ich wünsche mir, dass ich dich bald wiedersehen kann. Theo tôi thì nên viết là: Ich wünsche mir, dich bald wiederzusehen. Giải pháp: Put some respect on the “Hauptsatz”!! Hãy kiểm tra lại sau khi viết xem, có chỗ nào có thể trình bày ngắn gọn và trực tiếp hơn được không? Như đã nói ở trên, nhiều khi đơn giản hóa mọi thứ lại giúp các bạn đến gần với văn phong tiếng Đức hơn đấy! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Hà Phương + Bích Diệu
Rất nhiều bạn học tiếng Đức đều có chung một nỗi lo, đó chính là việc học từ mới. Bản thân tôi khi còn ở Việt Nam cũng nhận thấy học từ mới theo phương pháp truyền thống là chưa hiệu quả, kiểu như “Frauen: phụ nữ” (chép lại 10 lần). Không chỉ tiếng Đức, mà hầu như ngoại ngữ nào ở Việt Nam chúng ta cũng học từ mới kiểu như vậy. Tuy nhiên, sau khi sang Đức một thời gian, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề mở rộng vốn từ và đã đúc kết được một phương pháp tôi cho là hợp lý cho riêng mình. Phương pháp đó gọi là „Neue Wörter durch Kontexte und Wortfamilie“. Để cho dễ hiểu, tôi sẽ lấy ví dụ với việc học một từ khá hay gặp, đó là từ „bekommen“. Việc tôi làm khi gặp từ „bekommen“ được chia ra làm 2 hướng như sau: – Hướng 1: Tìm tất cả các nét nghĩa của từ „bekommen“ bằng việc tìm ra những ngữ cảnh (Kontext) mà người ta sử dụng từ đó. Lưu ý: Luôn luôn học bằng ví dụ, không bao giờ chúng ta nên viết kiểu như này: bekommen: nhận được (receive). Bekommen (1): von jemandem etwas erhalten Bsp: Heute habe ich einen Brief von meiner Freundin bekommen. (Hôm nay tôi đã nhận được một bức thư từ bạn gái của tôi.) Bekommen (2): etwas kaufen können (gegen Geld erhalten) Bsp.: Das Buch ist ein Bestseller. Es war seit letzter Woche ausverkauft und ist nicht mehr zu bekommen. (Cuốn sách này bán rất chạy. Nó đã hết hàng từ tuần trước và không thể tìm mua được nữa.) Bekommen (3): als Umschreibung des Passivs Bsp.: Die Unterlagen habe ich heute zugeschickt bekommen. (Hôm nay tôi đã nhận những giấy tờ được gửi đến.) Ngoài ra còn những nét nghĩa khác của từ bekommen, tuy nhiên vì giới hạn bài viết nên tôi sẽ dừng lại ở ba nét nghĩa mà tôi cho là quan trọng nhất của động từ này. – Hướng 2: Tìm tất cả các từ được cấu trúc từ „bekommen“. Những từ đó có thể chia ra thành các nhóm sau đây: Nhóm thêm tiền tố cho „bekommen“ -> động từ Nhóm danh từ Nhóm tính từ (trạng từ) Cụ thể mời các bạn tham khảo hình dưới đây. Chúc các bạn học từ mới hiệu quả Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ
Đây là một vấn đề mình đã đề cập rất nhiều với các học sinh của mình, đặc biệt những em mới tham gia học.Mình luôn luôn nói rằng, giáo viên dù có là bất cứ ai, Profile khủng cỡ nào thì vẫn chỉ là con người, và bọn mình không thể nào đảm bảo cho các bạn học mấy tháng sẽ xong trình độ này, trình độ kia. Yếu tố quyết định của việc bạn có học tốt hay học nhanh được hay không, phụ thuộc chủ yếu vào bản thân bạn. Còn dưới tư cách giáo viên, chúng mình sẽ chỉ hướng dẫn bạn, trả lời những câu hỏi mà bạn chưa biết hay đưa ra lời khuyên cho bạn mà thôi. Vậy làm thế nào để tự học? Chúng ta hãy cùng tham khảo những quan điểm dưới đây: 1. Từ bỏ tiếp thu kiến thức thụ động Việc giảng dạy không chỉ riêng ngôn ngữ, mà cả những môn học khác ở Việt Nam nói chung đều theo hướng „Tầm sư học đạo“, có nghĩa là muốn học tốt thì phải tìm thầy/cô hay. Quan điểm này không sai, nhưng có lẽ các bạn quên rằng ở thời đại ngày nay, tất cả những thứ xung quanh ta đều có thể trở thành thầy của ta. Chúng ta có người chị vĩ đại Google, có sách báo, có Youtube, có Netflix, có mạng xã hội, có tất cả mọi thứ. Đừng chờ đến khi giáo viên giảng về một vấn đề rồi tiếp thu nó một cách thụ động qua giáo viên, đừng chờ đến khi giáo viên giao bài cho bạn rồi mới bắt đầu làm, đừng chờ giáo viên phải kiểm tra bài cũ để xem các bạn có hiểu bài hay không. Hãy tìm hiểu trước, hãy đọc trước, hãy có kiến giải cho riêng mình, và hãy đặt thật nhiều câu hỏi. Mình hay nói với các bạn học sinh, tôi sẽ trả lời đủ 1000 câu hỏi của các bạn, nhưng nếu câu hỏi là: „Em không biết gì chỗ này anh nói từ đầu được không?“, thì rất tiếc là mình sẽ không trả lời câu này. Việc học là của các bạn và cho tương lai các bạn, làm sao mà các bạn lại để mình có trách nhiệm với nó hơn cả các bạn được, phải không? 2. Hãy hiểu vấn đề, chứ đừng chỉ biết Ở đây có một câu hỏi phổ biến là: „Vậy như thế nào là hiểu vấn đề?“. Ở đây mỗi người mỗi ý, nhưng theo quan điểm cá nhân của mình, hiểu được một vấn đề, có nghĩa là phải GIẢI THÍCH ĐƯỢC CHO NGƯỜI KHÁC HIỂU VẤN ĐỀ ĐÓ BẰNG NGÔN NGỮ CỦA BẠN. Như các bạn có thể thấy ở biểu đồ hình kim tự tháp phía trên, dạy người khác về một vấn đề là cách tốt nhất để bạn học hiểu vấn đề đó, trái lại với việc chỉ học từ trên lớp. Nếu bạn nào đã học với mình, chắc không còn lạ gì cái câu hỏi: „Bây giờ chúng ta có 4 cách, 3 trong số đó có vai trò đặc biệt quan trọng là Nominativ, Akkusativ và Dativ. Có ai biết tại sao chúng ta lại cần có 3 cách đó hay không?“. Với những câu hỏi kiểu như vậy, hoặc là bạn hiểu vấn đề, còn không thì bạn chỉ có thể nói vẹt lại là tiếng Đức có mấy cách và mỗi cách thì Artikel viết như nào mà thôi! Vì vậy, lời khuyên cho các bạn là hãy cố gắng giải thích ra cho bạn học và cho cả giáo viên nữa, rằng các bạn hiểu những thứ các bạn mới được học như thế nào. Điều này đồng nghĩa với việc rèn luyện thêm kĩ năng thuyết trình nữa đấy nhé! Và các bạn biết kĩ năng thuyết trình dùng cho phần thi nào rồi đấy xD! 3. Hãy bắt tay vào làm, chứ đừng chỉ nghĩ Phương pháp thì mình luôn sẵn sàng đưa cho các bạn, tài liệu và kinh nghiệm cũng thế, nhưng có thực sự làm hay không, thì mình chịu và chỉ có các bạn mới biết được. Nhiều bạn rất hay có nghi ngờ rằng, liệu phương pháp này đúng không, liệu học thế có ăn thua gì không? Cái tình huống này thật ra khá giống mấy anh choai choai đang không biết có nên tỏ tình với crush hay không, vì sắp ra trường. Thế để mình nói luôn với các bạn quan điểm của mình: Thà bị từ chối hay là yêu xong thấy không hợp rồi chia tay, còn dễ chịu hơn là không bao giờ dám nói ra xong rồi lại tiếc. Việc học cũng vậy, không có phương pháp nào là tối ưu cho tất cả mọi người, nhưng các bạn có quyền thử nghiệm và thay đổi nếu cần cơ mà. Ai bắt các bạn phải học như thế mãi đâu? Nhưng ít nhất phải trải nghiệm và thật sự làm trong một khoảng thời gian đủ dài thì bạn mới đủ thông tin để đánh giá một cách làm chứ, phải vậy không? Thế nên, nếu thấy cách làm gì đó hay và nghĩ rằng có thể nó sẽ mang lại gì đó, hãy làm nó đi đã. Có một câu mình thấy rất hay liên quan đến công việc: „Nếu các bạn cảm thấy không thích công việc mình đang làm, hãy từ bỏ nó, hoặc là yên lặng và làm tiếp!“ 4. Hãy viết thật nhiều Đúng vậy, như mình đã nói, ngôn ngữ đối với mình là công cụ giao tiếp. Mà đã là công cụ, nếu không được đưa ra sử dụng thường xuyên, lẽ đương nhiên là công cụ đó sẽ nhanh chóng cùn mòn và kém hiệu quả trong công việc. Việc viết ra bằng tiếng Đức giúp chúng ta rèn luyện cùng lúc một loạt những thứ sau đây: sức sáng tạo, tư duy logic, khả năng chọn lọc, kĩ năng trình bày, tính cẩn thận và đương nhiên là cả ngữ pháp tiếng Đức nữa. Tương tự như một bài viết bàn về kĩ năng nói, mình luôn muốn mọi người hãy là chính mình khi viết. Cụ thể là, hãy viết như cách bạn suy nghĩ, và hãy tập luyện để những gì bạn viết ra có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trước khi để ý đến việc dùng từ hay, từ khó hay các loại Redemittel. Mình không phủ nhận việc học nhiều từ hay và các loại Redemittel giống như người Đức sẽ làm bài viết của các bạn hay và “deutsch” hơn rất nhiều. Tuy nhiên, xin đừng học thuộc lòng 1 đống Redemittel cho sẵn và cố gắng hình thành nội dung bài viết sao cho nhét được thật nhiều Redemittel vào để lấy điểm cao. Hãy hình thành nội dung bài viết một cách tự nhiên và dùng Redemittel vào những vị trí mà bạn cho là phù hợp, hoặc nếu chưa biết, hãy cứ viết theo cách của bạn. Có rất nhiều sự hỗ trợ từ khắp nơi có thể giúp các bạn chỉnh sửa lại cách viết cho tốt hơn (Deutsch mit Kobe chả hạn xD). Quan trọng nhất, mình nhắc lại, là các bạn phải viết ra, càng nhiều càng tốt. Đừng sung sướng khi nhìn thấy bài viết mẫu của người khác nữa. Các bạn có thể học thuộc 40-50 bài viết mẫu để vượt qua 1 kì thi, nhưng các bạn không thể nào học thuộc cả cái ngôn ngữ này cũng như những tình huống trong cuộc sống để mà đem ra dùng khi sang Đức. Lúc đó, mình tin các bạn sẽ hối hận vì đã không dùng thời gian, sức lực và cả tiền bạc một cách hợp lý hơn đấy! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Phân tích biểu đồ là phần thi phổ biến trong các kì thi chuẩn hóa như Goethe Zertifikat C1, TestDaF hay DSD. Hôm nay, chúng mình xin giới thiệu đến các bạn những mẫu câu điển hình được sử dụng để phân tích biểu đồ cũng như một vài ví dụ về việc phân tích các dạng biểu đồ khác nhau nhé! A – PHẦN MỞ ĐẦU – EINLEITUNG 1. Was ist der Titel oder Inhalt der Grafik? Das Diagramm zeigt … Die Grafik stellt … dar. Die Tabelle / Das Schaubild / Die Grafik zeigt, dass / wie … Die vorliegende Grafik / Die Tabelle / Das Schaubild / Die Statistik / Das Diagramm gibt Auskunft über … In der Grafik geht es um … Das Thema der Grafik / des Schaubildes ist … Aus der Statistik ist zu ersehen, dass / wie … Dem Schaubild ist zu entnehmen, dass / wie … Das Schaubild stellt … dar. Das Schaubild stellt dar, wie … Was das Schaubild zeigt, ist … Aus dem Diagramm geht hervor, dass / wie … Aus der Tabelle ergibt sich, dass … 2. Wann wurden die Daten erhoben und wie werden sie dargestellt? Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf das Jahr / die Jahre … Die Angaben sind in … (Euro, Prozent, Kilo usw.) Die Werte sind in … angegeben. Die Daten stammen aus dem Jahr … Die Angaben basieren auf einer repräsentativen Umfrage unter …, die in der Zeit vom … bis zum … durchgeführt wurde. Als Basis für den Index wurde das Jahr …. ( = 100 %) gewählt / festgesetzt. 3. Woher stammen die Daten? Die Daten stammen von … / aus einer Umfrage von … Das Schaubild wurde vom … erstellt / herausgegeben. Die Grafik wurde dem / der … entnommen. 4. Wer hat die Daten erhoben? Die Quelle des Schaubildes / der Grafik / des Diagramms ist … Die Zahlen legte (das Statistische Bundesamt, das Institut für …) vor. B – PHẦN THÂN BÀI: MIÊU TẢ VÀ PHÂN TÍCH – BESCHREIBUNG UND ERKLÄRUNG 5. Beschreiben: Aus dem Schaubild geht hervor (geht nicht hervor), dass … Es fällt auf, dass … Es ist interessant, dass … Auffällig ist, dass … Überraschend ist, dass … Erklären lassen sich diese Zahlen möglicherweise mit … Mit / In der Abbildung / Grafik / dem Schaubild soll gezeigt werden, dass … Wie die Tabelle zeigt, … Der Tabelle lässt sich entnehmen, dass … Die Verteilung der Werte für die einzelnen Gruppen / Kategorien ist äußerst uneinheitlich / einheitlich. Als Haupttendenz lässt sich feststellen / erkennen, dass … Es lässt sich eine deutliche Tendenz in Richtung … erkennen. Auf der X / Y-Achse sieht man … 6. Reihenfolge: An erster / zweiter / dritter / … / letzter Stelle steht … Auf dem ersten Platz steht … Den ersten / … Platz belegt … Die erste /… Stelle nimmt … ein. Dann / Danach folgt … mit … Letzter ist … Das Schlusslicht bildet … 7. Entwicklung: Der Anteil / Die Zahl der … ist von (Jahr) / im Jahre … auf … gestiegen / angestiegen / angewachsen / gesunken / zurückgegangen. Der Anteil von der … ist um fast/ mehr als … % gestiegen / gesunken. Die Zahl der … hat sich zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% erhöht / verringert. Die Zahl der … hat zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% zugenommen / abgenommen. In den vergangenen … Jahren steigerte / erhöhte / verringerte sich die Zahl der … um …% Im Zeitraum von … bis… hat sich die Zahl der … fast / mehr als verdoppelt / verdreifacht / vervierfacht. 8. Vergleich: Im Vergleich zu … ist die Zahl der … um …% höher/ niedriger. Im Gegensatz / Im Unterschied zu … ist der Anteil der … um …% gefallen/ gestiegen. Verglichen mit … hat sich die Zahl (von … / der …) um …% gesteigert / verringert. Der Anteil der … ist geringer / höher als der bei … Während … um … stieg, ist … um … gesunken. Für die Gruppe der … ist … wichtiger / bedeutender als für die Gruppe der … Gegenüber … ist … Im Gegensatz/ Unterschied zu … liegt … deutlich höher/ niedriger als … Erwirtschaftete / Erzielte (Jahr) ein Arbeitnehmer eine/n … von …, so kam er (Jahr) bereits auf eine/n … von … . Gaben (Jahr) noch …% der Befragten an, dass sie …, waren es (Jahr). nur noch … C – KẾT LUẬN – KOMMENTARE UND SCHLUSSFOLGERUNGEN. Abschließend kann man feststellen, dass … in den letzten Jahren tendenziell steigt / sinkt. Die Grafik zeigt deutlich den kontinuierlichen Rückgang / Anstieg … In Bezug auf den Zeitraum kann gesagt werden, dass…. Es fällt auf / Es ist unverkennbar / Überraschend ist, dass … Leider kann man nicht deutlichen sehen, dass … Aus der Grafik geht leider nicht hervor, wie … Aus dem präsentierten Datenmaterial lässt sich nicht ersehen, ob / wie… In Bezug auf mein Heimatland sind ähnliche / unterschiedliche Tendenzen zu sehen. Auch in meinem Heimatland würde die Grafik / Tabelle / das Diagramm ähnlich aussehen. >>> Động từ nói về sự tăng trưởng: sich erhöhen, sich steigern, ansteigen, erhöhen, steigen, zunehmen, zulegen, steigern, usw. >>> Động từ nói về tình trạng suy thoái, giảm sút: sich verringern, sich vermindern, abnehmen, fallen, schrumpfen, sinken, senken, reduzieren, usw. CÁC VÍ DỤ CỤ THỂ – BEISPIELE Beispiel 1: Die Grafik zeigt die Entwicklung der Lebenserwartung der Deutschen von 1910 bis heute. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1910, 1932, 1960 und heute. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt und wurden in vier unterschiedlichen Zeiträumen erhoben. Die Lebenserwartung wird in Form von Säulen dargestellt. Es gibt immer zwei Säulen pro Zeitraum, eine blaue und eine rote Säule. Rot ist für die Lebenserwartung der Frauen und blau ist für die Männer. Es lässt sich eine deutliche Tendenz erkennen: Die Deutschen werden immer älter. Am Anfang des letzten Jahrhunderts wurden die deutschen Männer nur ungefähr 45 Jahre alt und die Frauen nur ca. 48 Jahre alt. Heute werden sie fast doppelt so alt. Die Frauen in Deutschland werden im Durchschnitt knapp 82 Jahre alt und die Männer ungefähr 76 Jahre alt. Wie die Tabelle auch zeigt, werden Männer, die 1932 geboren wurden, ungefähr 60 Jahre und die Frauen ungefähr 63 Jahre alt. Männer, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits fast 7 Jahren älter. Die Frauen, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits 10 Jahre älter. Insgesamt wird deutlich, dass die Frauen im Durchschnitt älter werden als die Männer. Es ist auch zu erkennen, dass es sich um Durchschnittszahlen handelt. Meine Großeltern zum Beispiel wurden ungefähr 1920 geboren und sind bereits fast 90 Jahre alt – also älter als der Durchschnitt von denen, die heute geboren werden. Beispiel 2: Der Titel der Grafik heißt Einwohner je Arzt und Zahnarzt. In der Grafik kann man sehen, wie viele Einwohner ein Arzt bzw. ein Zahnarzt in den unterschiedlichen Zeiträumen im Durchschnitt betreut. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1970, 1980, 1991, 2000 und 2003. Sie sind in absoluten Zahlen dargestellt. Es ist ein Säulendiagramm. Für die Zeiträume gibt es jeweils 2 unterschiedliche Säulen. Die hellblaue Säule stellt die Anzahl der Einwohner pro Zahnarzt dar und die andere, die dunkelblaue Säule, stellt die Anzahl der Einwohner pro Arzt dar. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt. Man kann eine deutliche Tendenz erkennen. Der Anteil der Einwohner pro Arzt ist von 1970 bis 2003 gesunken. Das bedeutet, dass es immer mehr Ärzte und Zahnärzte in der Bundesrepublik Deutschland gibt. Es kann auch bedeutet, dass die medizinische Versorgung in Deutschland von 1970 bis 2003 besser geworden ist. Ein Arzt musste 1970 im Durchschnitt 615 Einwohner versorgen. Im Jahre 2003 musste er nur noch weniger als die Hälfte versorgen, nämlich 271 Personen. Der Anteil ist also um fast 56 Prozent gesunken. Im Gegensatz dazu muss ein Zahnarzt 2003 noch rund 1280 Personen betreuen. Das entspricht einem Rückgang von fast 40 Prozent. Im Allgemeinen kann man sagen, dass es immer mehr Ärzte als Zahnärzte gegeben hat. Beispiel 3: Das Schaubild zeigt den Anteil der Privatschulen im Jahre 2008. Die Daten wurden vom Statistischen Bundesamt erhoben und werden in Prozent dargestellt. Man sieht sechs Säulen mit 2 unterschiedlichen Farben bzw. Mustern. Die Muster stehen für allgemeinbildende Schulen und berufliche Schulen. Die Säulen für die beruflichen Schulen sind schräg gestreift und die Säulen für die allgemeinbildenden Schulen haben ein Karo-Muster. Von allen privaten Schulen in Deutschland haben im Jahr 2008 rund drei Fünftel zu den allgemeinbildenden Schulen und die restlichen zwei Fünftel zu den beruflichen Schulen gehört. Man kann auch drei Kategorien erkennen: Deutschland, frühes Bundesgebiet und neue Länder. Für Gesamtdeutschland sieht man, dass ca. 9 Prozent der allgemeinbildenden Schulen und mehr als doppelt so viele Berufsschulen Privatschulen sind. Ähnliche Tendenzen sieht man auch in der Kategorie „Früheres Bundesgebiet”. Demgegenüber ist der Anteil der Privatschulen in den neuen Bundesländern deutlich höher als in den alten Bundesländern. Mit fast 32 Prozent liegt der Anteil der privaten Berufsschulen in den neuen Bundesländern fast doppelt so hoch wie in den alten Bundesländern. Man kann aber feststellen, dass der Anteil der allgemeinbildenden Schulen sowohl in den neuen als auch in den alten Bundesländern fast gleich hoch ist. Auch kann man sagen, dass der Anteil der Berufsschulen doppelt bzw. dreimal so hoch ist wie der Anteil der allgemeinbildenden Schulen. Leider kann man nicht deutlich sehen, warum das so ist. Es wäre auch interessant, den Anteil von Privatschulen in anderen Schulformen zu sehen. In der Grafik fehlt meiner Meinung nach eine Darstellung der Entwicklung. Es würde mich interessieren, wie der Anteil der Privatschulen in den Jahren vor 2008 war. Bài viết có tham khảo dữ liệu từ: www.wirtschaftsdeutsch.de www.sprachzentrum.com.ar Tác giả: Cẩm Chi
Các ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả những động tác và làm rõ ý của người truyền đạt. Trái lại, ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả những khái niệm và mang đến cái nhìn toàn cảnh cho sự việc được nhắc tới. Một dân tộc càng tiến bộ sẽ sở hữu càng nhiều khái niệm trừu tượng và ngôn ngữ của dân tộc đó cũng trở nên trừu tượng hơn. Lý do là vì một khái niệm trừu tượng bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một động từ. Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau đây. Giữa hai câu: “Tôi đi sang Đức” và “Việc đi sang Đức của tôi” có sự khác biệt rõ rệt. Câu đầu tiên tuy rất rõ ràng và dễ hiểu nhưng chỉ diễn tả hành động cụ thể là “đi sang Đức”. Câu thứ hai trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà còn là tất cả các sự kiện dính liền với hành động trên, chẳng hạn “đi với ai”, “đi như thế nào”, “bao giờ đi”, vv và vv. Tiếng Việt của chúng ta đương nhiên cũng có lối hành văn sử dụng danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng hơn. Vì vậy, chắc ai trong số chúng ta cũng đều đồng ý rằng câu “Tôi đi sang Đức” nghe vẫn cảm thấy quen tai hơn. Thế nhưng, là một đất nước sở hữu rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học với những phát minh, lý thuyết đồ sộ, việc ghi chép và lưu trữ nguồn tư liệu khổng lồ đó biến tiếng Đức dần dần trở thành một ngôn ngữ lấy danh từ làm chủ đạo. Bằng cách này, những tư tưởng được đề cập vừa duy trì được tính bao quát và vững chắc, vừa đảm bảo cắt giảm số lượng câu từ để việc lưu trữ đạt hiệu quả cao nhất. Các câu văn dùng nhiều danh từ mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn, rất phù hợp để diễn tả những ý kiến tổng quát và khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc, thay vì những ý kiến cụ thể giới hạn cho từng trường hợp. Đến đây chắc chúng ta cũng đã rõ, tại sao một người Việt Nam lại cảm thấy khó khăn khi học tiếng Đức hơn một người đến từ Anh. Vấn đề không chỉ đơn giản nằm ở mức độ khó hay dễ của tiếng Đức, vấn đề có lẽ xuất hiện ngay từ việc chúng ta đến từ một đất nước với một hệ ngôn ngữ trái ngược. Tuy vậy, ngay bản thân tiếng Đức cũng luôn tồn tại song song hai phong cách diễn đạt một vấn đề như đã nhắc đến ở trên, đó chính là Verbalstil và Nominalstil. Nhìn vào gốc của hai từ, chúng ta dễ dàng nhận ra “Verb” (động từ) và “Nomen” (danh từ). Khi nói chuyện bình thường trong cuộc sống hàng ngày, rõ ràng chúng ta sử dụng chủ yếu là động từ và qua đó, thể hiện một cách tường minh và sống động điều mà chúng ta mong muốn. Vì lý do này, Verbalstil được sử dụng nhiều hơn trong văn nói và còn có các tên gọi quen thuộc khác như “Alltagssprache” hay “Umgangssprache”. Ngược lại, Nominalstil được sử dụng chủ yếu trong các văn bản mang tính học thuật, hàn lâm, chính trị hay hành chính. Các văn bản này sử dụng rất nhiều các cấu trúc gồm danh từ đi kèm giới từ và do đó, đòi hỏi nền tảng ngữ pháp cao hơn nhiều so với việc sử dụng động từ. Do vậy, dù với tư cách là một người Việt học tiếng Đức hay một người yếu kĩ năng viết (một kĩ năng khó với rất nhiều người), chúng ta cần thành thục cách để chuyển đổi từ Verbalstil sang Nominalstil, hay như trong tiếng Đức chúng ta gọi là “Nominalisierung”. Vậy thì có những phương án nào cho “Nominalisierung” và làm thế nào để có thể “nominalisieren” thành công? Vì giới hạn cũng như định hướng bài viết, mình chỉ đề cập đến “Nominalisierung” từ động từ và tạm bỏ qua các loại từ khác. Sau đây là các cách để biến đổi một động từ thành một danh từ trong tiếng Đức: Thay đổi trạng thái của động từ bằng thành phần bổ sung (Explizite Derivation) Xuất phát từ một động từ, chúng ta có thể tạo ra một danh từ mới thông qua việc thêm vào các thành phần bổ sung (Affigierung), ví dụ như tiền tố (Präfix), hậu tố (Suffix) hoặc kết hợp cả 2 thành tố trên (Zirkumfix). Trong trường hợp này, bản chất của động từ ban đầu không hề bị thay đổi và giống của danh từ nhận được thông qua quá trình này sẽ được quyết định hầu hết thông qua Affigierung. Ví dụ, từ các động từ “bilden”, “ergeben” và “wachsen“ chúng ta có thể cấu tạo ra danh từ thông qua việc thêm vào các hậu tố mang xu hướng danh từ hóa (nominale Suffixe): bilden + ung -> die Bildung ergeben + nis -> das Ergebnis wachsen + tum -> das Wachstum Không thay đổi trạng thái của động từ, không sử dụng thành phần bổ sung (Konversion) Trái ngược với việc thay đổi trạng thái của động từ ban đầu (Wortartwechsel), chúng ta chỉ đơn giản chuyển thể một động từ thành một danh từ thông qua việc thêm vào quán từ (Artikel). Ở đây, ta lại có 2 trường hợp riêng biệt gồm: Cấu tạo danh từ giữ nguyên động từ (syntaktische Konversion) và cấu tạo danh từ giữ một phần động từ (morphologische Konversion). Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy tham khảo các ví dụ sau đây: lernen -> das Lernen (syntaktische Konversion) treffen -> das Treffen (syntaktische Konversion) beginnen -> der Beginn (morphologische Konversion) kaufen -> der Kauf (morphologische Konversion) Thay đổi trạng thái của động từ không sử dụng thành phần bổ sung (implizite Derivation) Lấy một phần từ cả 2 phương pháp trên, cách thứ 3 này sẽ vừa thay đổi trạng thái động từ ban đầu (Wortartwechsel) và vừa không sử dụng bất kì thành phần bổ sung (Affigierung) nào. Để phân biệt với trường hợp thứ 2 chúng ta sử dụng khái niệm „Sự thay đổi bản chất của từ“ (Stammvokalwechsel). Để hiểu rõ hơn, hãy cùng tham khảo các ví dụ sau đây: finden -> der Fund gehen -> der Gang genießen -> der Genuss schreiten -> der Schritt Một trong những ưu điểm dễ nhận thấy nhất của việc sử dụng danh từ đó là đôi khi chúng ta có thể bỏ bớt các câu phụ và diễn đạt được ý tương tự một cách gọn gàng hơn. Tuy vậy, ngay cả trong các văn bản mang tính hàn lâm, chúng ta cũng không nên sử dụng „Nominalisierung“ một cách thái quá để tránh việc câu chúng ta viết ra rơi vào tình trạng phức tạp quá mức, gây khó khăn cho việc đọc hiểu. Nói tóm lại, danh từ hóa là một công cụ đa dụng, vừa giúp chúng ta đến gần hơn với văn phong tiếng Đức, vừa giúp chúng ta rèn luyện kĩ năng viết, lại vừa tạo cơ hội để chúng ta xử lý những hiện tượng ngữ pháp phức tạp hơn. Nhưng xét cho cùng, dù là động từ hay danh từ, hãy luôn nhớ rằng, ngôn ngữ chỉ là công cụ giao tiếp, chứ không phải phương tiện để làm màu. Một khi nội dung được truyền tải hợp lý và người tiếp nhận thông tin cảm thấy dễ hiểu, lúc đó mục tiêu của việc học ngôn ngữ đã đạt được, dù là với Verbalstil hay là Nominalstil! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ Bài viết có tham khảo nội dung từ bài viết của SpraKuKo với tiêu đề “Nominalisierung von Verben: Explizite Derivation und Konversion“. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự góp ý của Hoàng Trinh!
Aufnahmeprüfung vào Studienkolleg là một kì thi rất quan trọng với những bạn tốt nghiệp cấp 3 muốn sang Đức học đại học. Tùy vào từng trường mà đề thi sẽ bao gồm những bài thi khác nhau, nhưng hầu như trường nào cũng sẽ có 2 phần thi chính, đó là: Toán và C-Test. Học sinh Việt Nam mình thì chắc chả ai sợ kì thi toán nữa rồi, nên mình cũng không bàn tới ở đây. Theo đánh giá khách quan của mình, C-Test là một kiểu bài thi không quá khó, nhưng cần sự chăm chỉ và CỰC KÌ cẩn thận để đạt điểm cao. Thêm nữa, với tỉ lệ chọi ngày càng khủng khiếp do lượng học sinh sang Đức tăng vọt trong những năm gần đây, kì thi này bỗng dưng trở nên căng thẳng hơn hẳn. Làm hơn kém nhau chỉ một câu thôi mà đã có người đỗ người trượt rồi, nên trong bài viết này, tôi muốn đưa ra một số lời khuyên cho các bạn trong quá trình ôn thi bài thi này. Đầu tiên, tôi sẽ đưa ra những hướng dẫn chung. Có vài điểm sau đây mà các bạn cần lưu ý khi luyện tập làm bài thi C-Test: Không quá tin vào sách ôn thi: Tôi biết các bạn đều biết quyển Mut zur Lücke 1 2 3 4 5 gì gì đó. Nhưng nếu các bạn nghĩ cứ làm quen tay mấy quyển đó rồi là chắc ăn thi đỗ thì các bạn nhầm to. Về cơ bản, người ta có thể lấy bất cứ đoạn văn hay bài báo có sẵn nào rồi che bớt vài từ đi là thành một bài C-Test, nên nguồn tài liệu cho dạng bài thi này thì nó là vô hạn. Có thể với Mut zur Lücke các bạn sẽ làm rất chắc tay những câu cho điểm, hoặc nếu gặp những chủ đề mà các bạn đã gặp rồi thôi. Tuy nhiên, các bạn cần đọc thật nhiều và cũng phải viết thật nhiều để nắm văn phong của người Đức và cải thiện vốn từ vựng. Vốn từ vựng là một cái rất khó cải thiện, nhưng hãy lập ra cho mình một kế hoạch học từ mới một cách hợp lý thông qua việc đọc nhiều dạng tài liệu khác nhau và luôn luôn học từ mới thông qua văn cảnh (Kontext). Không làm sai những câu không được phép sai: Đương nhiên là không có bài thi nào là toàn những thứ khó không ai làm được. Một trong những thứ xuất hiện khá thường xuyên trong bài thi C-Test là việc chia đuôi tính từ. Tầm quan trọng của việc làm đúng những câu như thế này là không phải bàn cãi, giống như là việc buộc phải làm tối đa điểm câu khảo sát đồ thị hàm số trong đề thi toán đại học hồi xưa vậy. Làm thế nào để có thể chia cho đúng đuôi tính từ thì các bạn có thể tham khảo bài viết về việc này tôi đã post cách đây vài ngày! Không dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm: Cái này nói thì nghe có vẻ buồn cười, nhưng tôi tin không ít bạn làm bài thi C-Test bằng cảm giác chỗ này phải là từ này, chứ không đọc để hiểu nội dung chính của toàn bộ đoạn văn (vì hồi trước tôi cũng thế). Cách làm đó tuy cũng có cái lợi là tiết kiệm thời gian, và đôi khi hiệu quả cũng khá cao, nhưng với những đề thi dạng nâng cao hơn một chút là các bạn sẽ bị hoang mang ngay. Thế nên, cái chính vẫn là phải đọc thật là nhiều, và đọc một cách chú tâm để hiểu người ta muốn nói gì trước tiên, rồi sau đó mới bắt đầu để ý các cụm từ tiêu biểu. Và sau đây, tôi sẽ trình bày một số Tricks tôi rút ra từ kinh nghiệm ôn thi của mình: Độ dài của từ: Không biết các bạn có để ý không, tôi thì nhận ra là phải đến 99% số trường hợp thì số từ mà các bạn phải điền vào một chỗ trống luôn cùng lắm là hơn số chữ cho sẵn một chữ thôi. Ví dụ: nếu đề bài cho từ „d…“ thì từ này có thể dài đến tối đa là 3 chữ cái thôi (chẳng hạn „die“, „dem“, „da“,…), chứ không thể là „dass“ hay „denn“ được. Hãy đọc kĩ bài: Như đã nói ở phía trên, nhiều bạn khi làm C-Test có xu hướng đặt bút là làm luôn chứ không đọc tổng thể cả bài. Vì lý do đó, đôi khi các bạn gặp một từ khó khó và mất thời gian suy nghĩ rất lâu ở đó. Không quá thường xuyên, nhưng đôi khi những từ quá khó hoặc quá dài đó sẽ xuất hiện đâu đó trong bài viết ở phần không bị che bớt. Thói quen đọc lướt thẳng đến chỗ cần điền sẽ làm hại các bạn ở trường hợp này. Học từ mới có định hướng: Đương nhiên tôi không khuyến khích các bạn chỉ học những từ ở nhóm này, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, có một số chủ đề rất được ưa chuộng ở bài thi C-Test, bao gồm: giáo dục (đại học, phổ thông, nhà trẻ); môi trường (biến đổi khí hậu, rác thải, năng lượng sạch); nước Đức (lịch sử, văn hóa, chính trị, ẩm thực); khoa học (phát minh, các nhà khoa học nổi tiếng, những cái mẩu chuyện thú vị ngắn ngắn như kiểu quyển „Những hạt thóc trên bàn cờ“ nếu bạn nào biết). Ngoài việc học từ mới nhiều hơn ở những chủ đề này (đặc biệt là danh từ), các bạn cũng có thể tìm kiếm những bài báo ngắn liên quan đến những chủ đề này để đọc thêm về văn phong. Một nguồn tài liệu quý giá mà tôi đã khám phá ra khi ôn thi đó là trang DW Top Thema. Hãy cố gắng đọc ít nhất 3 bài mỗi ngày, sau 1 tháng bạn sẽ ngạc nhiên về vốn từ của mình đấy^^ P/S: Để tăng độ nguy hiểm cho bài viết, tôi đã học đúng như những gì tôi vừa chia sẻ với các bạn sau khi thi trượt Studienkolleg ở Hannover lần đầu. Lần thứ 2, tôi tự tin đến mức thi mỗi Hannover và đã đỗ với điểm C-Test đạt 128/135 (7 câu tôi làm sai đến giờ tôi vẫn nhớ gần hết xD). Thế nên là, theo như Adam Khoo thì: „Tôi làm được, bạn cũng thế“. Chúc các bạn thành công! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Vietnamesisch Makartsteg là một cây cầu bắc qua sông Salzach ở trung tâm thành phố Salzburg. Cây cầu được đặt theo tên của nhà sử học người Áo Hans Makart- người sinh ra và lớn lên tại thành phố Salzburg vào thế kỷ 19. Makart trở nên nổi tiếng với tư cách là một họa sĩ của chủ nghĩa lịch sử Vienna và là người sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật cho nhiều tòa nhà bề thế trên đường vành đai Vienna. Tại đây bạn có thể trải nghiệm “truyền thống khóa tình yêu”. Để cùng nhau hẹn thề “một tình yêu vĩnh cửu và không thể phá vỡ”, các cặp đôi viết lên ổ khóa tình yêu tên viết tắt của mình, sau đó gắn vào cầu và ném chìa khóa xuống sông. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chỉ người đi bộ và người đi xe đạp mới được phép đi lên cầu Makartsteg. Deutsch Der Makartsteg ist eine Brücke über die Salzach in der Salzburger Innenstadt. Der Name stammt aus dem österreichischen Historiker Hans Makart, der aus dem 19. Jahrhundert in Salzburg geboren und aufgewachsen wurde. Makart wurde als Maler des Wiener Historismus berühmt und lieferte Kunstwerke für viele der pompösen Gebäude der Ringstraße. Hier kann man die “Liebesschloss-Tradition” erfahren. Um ihre „unzerbrechliche und ewige Liebe“ zu beschwören, müssen Paare ein sogenanntes Liebesschloss mit den beschriften Initialen besorgen, es dann an die Brücke anbringen und letztendlich den Schlüssel in den Fluss werfen. Allerdings ist es darauf zu beachten, dass nur Fußgänger und Radfahrer auf dem Makartsteg zugelassen sind. Englisch The Makartsteg is a bridge over the Salzach in downtown Salzburg. The bridge was named after the Austrian historian Hans Makart, who was born and raised in Salzburg in the 19th century. Makart became famous as a painter of Viennese historicism and provided works of art for many of the pompous buildings on Vienna Ring road. Here you can experience the “love lock tradition”. In order to conjure up their “unbreakable and eternal love”, couples get a so-called love lock with the inscribed initials, then attach it to the bridge and finally throw the key into the river. However, it should be noted that only pedestrians and cyclists are allowed on the Makartsteg. Bài viết là trải nghiệm thực tế của cô giáo trẻ Diệp Vũ cùng minh họa đáng yêu từ người chị cùng tên.
Hi, ich bin Mai Anh. Derzeit bin ich Studentin an der Abteilung für Deutsche Sprache und Kultur, Fremdsprachenhochschule der Nationaluniversität Hanoi. Vor einem Jahr hatte ich ein wunderschönes und unvergessliches Erlebnis: Ich war in Deutschland. Auch wenn ich nun wieder in Vietnam bin und stehe aktuell vor vielen Prüfungen, kann ich mich immer an meine Erfahrungen in Deutschland erinnern, von Freunden, Bekannten, Gastfamilie bis hin zum Ausbruch der Coronakrise. Doch möchte ich in diesem Beitrag nur über was positives schreiben, und zwar über 5 Dinge, die ich nie zuvor gesehen hatte, bis ich in Deutschland ankam. 1. Dreh-Kippfenster Das Kippfenster ist in Deutschland eine Art von Standard. Wenn ihr den Griff wie gewohnt dreht, dann öffnet er sich vollständig. Wenn ihr den Griff jedoch ganz durchdreht, wird das Fenster oder die Tür nach innen gekippt. Die deutsche Fensteröffnungskultur scheint interessant zu sein. Darüber staunt die Welt. Bei Youtube gibt es unter dem Stichwort “German Windows” eine unendliche Reihe von Videos, in denen vor allem Amerikaner regelrecht von deutschen Fenstern schwärmen. Und wie sieht es bei euch auch? Funktioniert euer Fenster auch so? 2. Sommerreifen und Winterreifen Zweimal im Jahr fahren Deutsche mit ihren Autos in die Autowerkstatt und lassen ihre Reifen dort tauschen, von Sommerreifen zu Winterreifen oder umgekehrt. Aber woran liegt der Unterschied zwischen den beiden Reifentypen? Sommer- und Winterreifen unterscheiden sich im Wesentlichen in zwei Eigenschaften: der Gummimischung und dem Profil. Sommerreifen haben eine härtere Gummimischung, weil sie im Sommer extremen Temperaturen ausgesetzt sind. Sie haben ein grobes Profil, mehr Längsrillen und sind dafür konzipiert, möglichst viel Wasser von der Straße zu verdrängen. Winterreifen bestehen im Gegenteil aus einem weichen Gummigemisch. Dank Winterreifen ist man bei Schnee, Eis und Hagel sicherer unterwegs. Aufgrund des feineren Profils, der stärkeren Profiltiefe und weicheren Gummimischung haften Winterreifen beim Bremsen. Winterreifen sind mit Symbolen wie z.B. dem M+S Symbol (steht wortwörtlich für Matsch und Schnee) gekennzeichnet. Neben dem M+S Symbol gibt es noch das Alpine Symbol (auch als Schneeflockensymbol genannt). Außerdem ist die sogenannte “O bis O” Regel zu berücksichtigen, nämlich dass Autofahrer immer von Oktober bis zum Ostern mit Winterreifen fahren sollen. 3. Sitzpinkler: Sich hinsetzen, um zu pinkeln und hält das Badezimmer sauber! Um das Badezimmer sauber zu halten und Rücksicht auf das Reinigungspersonal zu nehmen findet ihr in vielen deutschen Toiletten Schilder in vielfältigen Formen, auf denen die allerwichtigste Toilettenregel lustigerweise dargestellt wird: “Bitte im Sitzen pinkeln”!! Diese Regel gilt vor allem für ein Mehrfamilienhaus oder eine Wohngemeinschaft, da die Reinigungsarbeiten meistens unter Mitbewohnern aufgeteilt werden. 4. Pfand Station/Pfandautomat In Deutschland gibt es ein tolles Flaschenrückgabesystem. Die sogenannten Leergutautomaten befinden sich in fast jedem Super- bzw. Getränkemarkt. Beim Kauf bestimmter Getränkeflaschen müsst ihr eine Kaution (auch bekannt als Pfand) für diese Flasche mitbezahlen. Wenn ihr die leere Flasche zurückgeben wollt, indem ihr die Flaschen ins Leergutautomat reinlegt, erhaltet ihr eure entsprechende Kaution zurück. Dies ermutigt die Menschen, ihre leeren Flaschen zurückzugeben. Die leeren Flaschen werden dann wiederverwendet oder recycelt, je nach Material oder Größe. In der Regel kostet eine Plastikflasche oder eine Aluminiumdose 25 Cent und eine Glasflasche jedoch nur 8 Cent. 5. Spaghettieis Spaghettieis wurde von Dario Fontanella in den späten 1960er Jahren in Mannheim, Deutschland erfunden. Es ist eine deutsche populäre Spezialität, die wie ein Teller Spaghetti aussieht. Das Eis besteht aus Vanilleeis oder Variationen wie Eis mit dunklen Schokoladen, Erdbeersauce, Kokosflocken und geriebenen Mandeln oder weißen Schokoladenspänen. Tác giả: Mai Anh VũMinh họa: Diệp Vũ Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự góp ý của Đồng Huyền và Kobe!
Vietnamesisch Là một người học tiếng, chắc hẳn mỗi chúng ta đều có “hứng thú” tìm hiểu về các loại bia Đức. Tuy không phải chuyên gia trong lĩnh vực này, nhưng hôm nay, tôi muốn giới thiệu cho các bạn một loại bia ở Đức: Radler. “Radler” nghĩa đen là người đi xe đạp. Vì vậy, ban đầu, nhiều người cảm thấy khá lạ lẫm khi người Đức dùng từ này để chỉ một loại bia. Radler là một loại “bia lai” bao gồm 50% bia và 50% nước chanh hoặc nước bưởi. Nó được ưu ái biết đến với cái tên “Durstlöscher” (“Thức uống giải khát”) và đặc biệt được yêu thích vào mùa hè. Nếu có dịp đến Đức, đặc biệt là đến Munich (bang Bayern), bạn đừng ngần ngại mà hãy thử ngay một ly Radler. Trên thị trường một vài năm trở lại đây đã bày bán Radler không cồn, rất phù hợp đối với phụ nữ có thai và trẻ em. Dưới đây là một vài bức ảnh của tôi và bạn khi chúng tôi uống Radler ở Salzburg (Áo) – nước láng giềng của Đức và là một trong những nước nói tiếng Đức. Deutsch Als Deutschlernende interessiert sich jeder von uns für deutsches Bier. Auch wenn ich darauf kein Experte bin, möchte ich euch in diesem Beitrag eine Biersorte in Deutschland empfehlen, nämlich Radler. “Radler” steht wortwörtlich für die Person, die Rad fährt. Daher finden viele am Anfang relativ komisch, wenn dieses Wort als Name einer Biersorte zu verwenden ist. Üblicherweise ist Radler eine 50:50-Mischung aus Bier und Limonade oder Grapefruitsaft. Bekannt als „Durstlöscher“ steht Radler in Sommerzeit besonders hoch im Kurs. Wenn ihr Chance hättet, in Deutschland, vor allem in München, einreisen zu können, solltet ihr nicht außer Acht lassen, ein Glas Radler auszuprobieren. Seit einigen Jahren steht außerdem alkoholfreies Radler, das auch für Schwangere und Kinder geeignet ist, auf dem Markt zur Verfügung. Im Folgenden findet ihr ein paar Fotos von meiner Freundin und mir, als wir Radler in Salzburg, Österreich, das Nachbarland Deutschlands und ein der deutschsprachigen Länder, tranken. Englisch As German learners, we do find interest in a world-famous cultural specialty of Germany, beer. Even though not being an expert on such an elegant yet festive cuisine, I would like to recommend in this post a type of beer in Germany, Radler. “Radler” literally stands for a person who rides a bike. Inevitably, many find it strange when this word was used to name a type of beer. Radler is usually a 50:50 ratio mixture of beer and lemonade or grapefruit juice. Cyclists, also known as the “thirst quencher”, are particularly prevalent in summer. If you have the chance to visit Germany, especially Munich, a glass of Radler is a must try. For several years now, alcohol-free shandy, which is also suitable for pregnant women and children, has been made available on the market. In this following post you will find a few photos of my girlfriend and I when we were drinking with cyclists in Salzburg, Austria, the neighboring country of Germany, also one of the few German-speaking countries. Glossar 1. sein + zu + Infinitiv (Passiversatz) ~ Passiv mit können, müssen & sollen2. hoch im Kurs stehen ~ populär/beliebt sein3. außer Acht lassen ~ ignorieren4. zur Verfügung stehen ~ bereitgestellt werden