Thông thường thì tên riêng của thành phố và các quốc gia KHÔNG ĐI KÈM mạo từ (Nullartikel), ví dụ: Berlin ist die Hauptstadt von Deutschland. (Berlin là thủ đô của nước Đức.) Freiburg ist eine Universitätsstadt in Baden-Württemberg. (Freiburg là một thành phố có trường đại học tại bang Baden-Württemberg.) Kassel liegt im Zentrum von Deutschland. (Kassel nằm ở trung tâm nước Đức.) Deutschland ist ein Industrieland. (Đức là một nước công nghiệp.) Korea liegt in Ostasien. (Hàn Quốc nằm ở Đông Á.) Brasilien ist das größte Land Südamerikas. (Brazil là đất nước lớn nhất Nam Mỹ.) Thế nhưng, khi muốn miêu tả đặc trưng của các thành phố hoặc quốc gia, nghĩa là khi thêm bổ ngữ cho tên riêng của các thành phố và quốc gia, thì ta phải thêm mạo từ “das” cho chúng, ví dụ: das Hanoi der 80-er Jahre. (Hà Nội của thập niên 80.) das schön gelegene Stuttgart (thành phố Stuttgart nằm ở vị trí thật đẹp đó.) das Paris von Haussmann (Paris của Haussmann.) (*Chú thích: Haussmann từng là quận trưởng quận Seine, Paris vào những năm 1860 và là người đã quy hoạch cũng như mở rộng thành phố Paris với trung tâm là tháp Eiffel như ta biết ngày nay.) das alte Japan (Nhật Bản thời xưa.) das Deutschland der 50er-Jahre (nước Đức thập niên 50.) das Russland der Zarenzeit (nước Nga thời Sa hoàng.) Tuy nhiên, vẫn có một số ngoại lệ tùy theo thay đổi đặc trưng ngôn ngữ ở từng địa phương. Đồng thời, một số địa danh/danh lam thắng cảnh như hồ, sông, núi,… cũng đi kèm với mạo từ như sau: Tên riêng của sông (Flüsse): der Rhein, die Donau, der Nil, der Amazonas, die Wolga,… Tên riêng của núi (Berge): die Zugspitze, der Feldberg, das Matterhorn, der Eiger, der Himalaya,… Tên riêng của hồ/biển (Seen): der Bodensee, der Chiemsee, der Viktoriasee, die Ostsee, die Nordsee,… Tác giả: Cẩm Chi
Monthly Archives: May 2022
Folge 2 Nối tiếp bài viết phần 1, hôm nay mình quay trở lại để giải thích nốt cho các bạn một số Modalpartikel đặc trưng khác trong tiếng Đức. 9. schon Với việc sử dụng “schon”, người nói muốn thể hiện quan điểm về một điều gì đó, trong khi người nghe lại có suy nghĩ khác về điều này. Bsp. Das sollst du schon wissen = Du denkst, dass du das nicht wissen musst. Aber ich finde es wichtig. Trong câu hỏi, người nói sử dụng “schon” khi không muốn đón nhận câu trả lời trong trạng thái tương đối tiêu cực. Bsp. Wer weiß das schon? = Ich glaube, dass es niemand weiß. Trong mệnh lệnh thức, người nói sử dụng “schon” khi muốn yêu cầu hoặc động viên người nghe làm một việc gì đó. Bsp. Sprich sie schon an! = Du solltest die Frau ansprechen. Ich glaube wirklich, dass sie an dir interessiert wäre. Bsp. Komm schon! chính là phiên bản tiếng Đức của “Come on!” 10. ruhig “ruhig” chỉ sử dụng trong mệnh lệnh thức. Nó giúp người nói thể hiện với người nghe rằng, họ cho phép người nghe làm điều gì đó. Bsp. Geh mal ruhig nach Hause! = Du musst nicht mehr arbeiten und kannst nach Hause gehen. 11. vielleicht “vielleicht” được sử dụng trước một tính từ hay một danh từ để làm mạnh quan điểm của người nói. Bsp. Das ist vielleicht teuer = Ich finde das sehr teuer. Bsp. Ich bin vielleicht ein Idiot = Ich bin wirklich ein Idiot. 12. aber Khác với khi là một liên từ, “aber” khi là Modalpartikel đứng trước tính từ sẽ mang lại ý nghĩa tương tự như khi ta dùng “sehr” hay “wirklich”, tức là khi muốn gia tăng cường độ. Bsp. Das ist aber toll! = Ich finde das wirklich toll. 13. bloß “bloß” chỉ được sử dụng ở mệnh lệnh thức và giúp người nói tăng mức độ cấp thiết của yêu cầu. Bsp. Sei bloß vorsichtig! = Du musst wirklich vorsichtig sein, sonst wird etwas Schlimmes passieren. 14. wohl Khi sử dụng “wohl”, người nói muốn thể hiện rằng mình không thật sự chắc chắn với điều gì đó. Trong nhiều trường hợp thì “wohl” có thể được coi là đồng nghĩa với “wahrscheinlich”. Bsp. Wo ist denn der Philipp? – Der ist wohl nach Hause gegangen = Ob er schon nach Hause gegangen ist, bin ich nicht sicher. Aber es scheint mir wahrscheinlich so zu sein. Oder jemand hat mir gesagt, dass er schon nach Hause gegangen ist. Oder ich weiß einfach nicht genau, ob das stimmt. 15. eigentlich “eigentlich” chỉ được sử dụng trong câu hỏi. Thông qua nó, người nói muốn chuyển chủ đề cuộc nói chuyện một cách lịch sự. Bsp. Hast du das EM-Finale eigentlich schon geguckt? = Wir haben gerade über etwas anderes geredet. Aber jetzt wollte ich plötzlich wissen, ob du das EM-Finale schon geguckt hast oder nicht. 16. einfach Khi sử dụng “einfach”, người nói muốn thể hiện rằng điều gì đó là không thành vấn đề. Bsp. Was wollen wir am Wochenende machen? – Komm einfach zu mir! = Ich freue mich, wenn du kommst, und das ist ein logischer Vorschlag. Ngoài ra, người nói còn sử dụng “einfach” để thể hiện sự không hài lòng với một tình huống nào đó và họ đang muốn chỉ trích. Bsp. Ich habe ihm mein Übungsheft verliehen. Er hat es einfach so angenommen, ohne Danke zu sagen = Ich finde, er hätte mir danken müssen. Cuối cùng, người nói sử dụng “einfach” để nói về một sự việc đơn giản là phải như vậy và sẽ luôn là như vậy. Bsp. Ich werde mit dem Deutschlernen einfach aufhören = Ganz egal, was ich mache – ich habe nicht die Motivation und/oder das Talent, um diese Sprache weiter zu lernen. Tác giả: Kobe
Đức là đất nước nơi người dân địa phương thường xuyên tận hưởng những lễ hội đa dạng và việc tiêu thụ khá nhiều các loại đồ nướng đi đôi với việc hướng đến một lối sống lành mạnh. Hầu hết người Đức đều biết tiếng Anh, nhưng đồng thời họ cũng tự hào về việc người dân của hai đất nước láng giềng có thể nói tiếng Đức với các phương ngữ khác nhau. Chúng ta đã biết khá nhiều về quốc gia này, nhưng nước Đức không bao giờ ngừng làm ta bất ngờ khi luôn cung cấp những sự thật với về nó, cho phép chúng ta không ngừng khám phá. Chỗ ở Hầu hết các ngôi nhà ở Đức chắc chắn sẽ có giá đựng trứng cho bữa sáng, một tủ sách (một món đồ mà người sở hữu cảm thấy đặc biệt tự hào), một đôi dép đi trong nhà thoải mái và chăn riêng cho những cặp vợ chồng ngủ trên giường đôi. Khi thuê một căn hộ, bạn nên lưu ý rằng người Đức đi ngủ sớm và dậy cũng rất sớm. Phong cách sống này ảnh hưởng đến hành vi của họ trong căn hộ, vì thế bạn không nên gây ồn ào sau 10 giờ tối. Theo truyền thống, bạn thậm chí không thể hút bụi hoặc bật máy giặt. Và ngày chủ nhật còn được coi là ngày của sự yên tĩnh. Rất nhiều ngôi nhà được sưởi ấm bằng củi vì chúng có hiệu quả cao và thân thiện với môi trường. Một người nước ngoài từng chia sẻ trên một diễn đàn: “Tôi từng chơi game trực tuyến với một người Đức. Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Anh. Một ngày đẹp trời, anh ấy nói với tôi ‘Tôi cần đặt một ít củi vào bếp.’ Tôi đã nghĩ đây là một từ lóng trong trò chơi hay một thành ngữ nào đó, nhưng tôi, một người dân thành phố, đã rất bất ngờ khi nhận ra anh ta thật sự ném củi vào bếp.” Phương tiện công cộng Một số người nói rằng các phòng chờ của các ga tàu thành phố lớn, ví dụ như ở Frankfurt, có thể khá lạnh và điều này là một vấn đề lớn khi đi du lịch vào mùa đông. Chính vì thế, bạn nên chuẩn bị cẩn thận cho bản thân, như việc mặc quần áo ấm chẳng hạn. Không có cửa quay trên tàu điện ngầm, trên xe buýt hoặc trên các phương tiện giao thông công cộng khác. Đây là cách lòng tin vận hành trong xã hội Đức. Mặc dù khá hiếm nhưng trên thực tế, nhân viên soát vé có làm việc. Họ mặc trang phục thường ngày khi làm việc và một hành khách có thể được yêu cầu xuất trình vé bất cứ lúc nào. Mức phạt cho việc di chuyển không vé có thể lên tới 60 Euro – vì thế sẽ dễ dàng hơn rất nhiều khi mua vé hoặc thẻ du lịch và sử dụng phương tiện công cộng mà không phải lo lắng về vấn đề bị xử phạt. Nếu bạn đi qua một trạm dừng xe buýt và đã dành nhiều ngày đứng đợi một chuyến xe thì bạn nên biết rằng, rất có thể đó là một cú lừa. Sẽ không có xe buýt nào đến đó cả. Chúng được dùng cho một mục đích khác – đón bệnh nhân. Các điểm dừng này nằm trên hoặc gần khu vực các bệnh viện, phòng khám và viện dưỡng lão, nơi những người bị suy giảm nhận thức hoặc Alzheimer sinh sống. Họ thường xuyên rời nhà (hoặc trong tình huống này là họ rời bệnh viện) và khi nhìn thấy một điểm dừng xe buýt, họ kỳ vọng xe buýt sẽ đưa họ đi xa khỏi nơi này. Họ đứng đó, chờ đợi một chuyến xe không bao giờ đến. Những bệnh nhân này thường được tìm thấy bởi bác sĩ và trợ lý của các cơ sở y tế và được yêu cầu quay lại bằng cách thuyết phục. Các ngày nghỉ lễ Vào ngày chủ nhật lễ Phục sinh, người Đức sẽ thắp lên lửa mừng. Đây là một phong tục điển hình của nước Đức để chào đón mặt trời và mùa xuân. Việc này vẫn khá phổ biến ở các vùng quê. Hầu hết gỗ được dùng cho ngọn lửa đến từ các cây thông giáng sinh cũ được thu thập và để dành cho dịp này Các cuộc diễu hành, bóng và biểu diễn sân khấu là các hình thức giải trí phổ biến cho khách tham quan tại lễ hội hóa trang Cologne. Đây là một lễ hội hóa trang nổi tiếng ở vùng Rhine với hơn một triệu người tham gia mỗi năm. Hệ thống giáo dục “Trẻ con Đức nhập học cấp một với một túi quà đặc biệt thay vì những đóa hoa. Người thân của chúng để bánh kẹo, đồ chơi, đồ dùng học tập và thậm chí cả tiền trong đó cho các bạn học sinh lớp 1”, trang Deutsche Welle cho biết. Như một quy luật, trẻ em thường tự làm những chiếc túi dài gần 3 feet. Nhiều người tin rằng, ban đầu ý tưởng bọc kẹo theo cách này lúc đầu để ngăn trẻ ăn tất cả mọi thứ một lúc trên đường đến trường. Từ năm 2004, giáo dục bậc đại học ở Đức, trừ bang Baden-Württemberg, là hoàn toàn miễn phí kể cả cho người nước ngoài. Giải trí dưới nước Việc xây lâu đài cát trên nhiều bãi biển bị cấm ở nước Đức và có những giới hạn nghiêm ngặt cho kích thước lâu đài cát được xây. Quy định cho từng bãi biển sẽ được đặt ở lối vào. Nếu bạn muốn đi câu cá, bạn buộc phải trải qua khóa huấn luyện đặc biệt và sau đó sẽ được cung cấp giấy phép. Những khóa học này sẽ dạy bạn các quy định và nguyên tắc khi câu cá. Đồ ăn Nếu bạn yêu cầu nước uống trong nhà hàng hoặc quán cà phê, nhân viên phục vụ có thể chỉ mang cho bạn nước có ga. Người Đức yêu thích loại thức uống này và thường pha nó với nước chanh và nước trái cây. Nhân tiện, bạn có thể uống trực tiếp nước máy mà không cần lo lắng về chất lượng. Pizza, nấm, sữa, khoai tây, trứng và thậm chí cả thịt có thể được mua ngay từ máy bán hàng tự động trên phố. Trên thực tế, các sản phẩm nông nghiệp địa phương thường xuyên được mua bán theo cách này. Vì vậy nếu bạn không có thời gian để đi tới cửa hàng vào buổi tối, hãy tìm một máy bán hàng tự động gần nhà. Hương vị và tên món tráng miệng có thể hoàn toàn lạ lẫm với du khách nước ngoài. Ở Munich, bạn có thể tìm thấy những món như Schnitzel và kem thịt xông khói của vùng Nam Tirolean, và thành phố Frankfurt thì cung cấp kem dâu tây ăn cùng giấm Balsamic. Xã hội Đức Niềm tin và sự thành thật là 2 nền móng căn bản của xã hội Đức. Một người bản xứ chia sẻ từ góc nhìn của anh ấy: “Hôm nay là Chủ nhật, và tất cả các cửa hàng ở Đức tất nhiên đều đóng cửa. Tuy nhiên thì một vài sản phẩm có thể mua được từ chỗ những người nông dân. Có một cửa hàng thậm chí không có người bán mà bạn có thể tìm thấy ở Gegenbach. Bạn chỉ cần lấy sản phẩm bạn muốn và đặt tiền lên quầy. Nhân tiện, có một máy đổi tiền bên trong đó.” Vì ngày Chủ nhật thường là ngày yên tĩnh trong các ngôi nhà ở Đức, các gia đình có trẻ em thường dành thời gian này trên các con phố, họ đi dạo trong công viên, tham quan bảo tàng, đi xem phim và tham gia nhiều hoạt động tương tự như vậy. Người Đức thường được nhìn nhận là có phong thái điềm đạm, dè dặt và thậm chí lạnh lùng. Tuy nhiên, họ sẽ là những người đầu tiên quan tâm tới những người hoàn toàn xa lạ. Ví dụ, đối với người Đức, việc nhặt một món đồ bị mất và treo nó lên cành cây gần đó được coi là bắt buộc. Một người Đức lịch sự và chỉn chu sẽ không bao giờ bắt đầu ăn bữa trưa của mình cùng với người khác nếu món ăn của họ được mang ra trước. Họ chỉ bắt đầu ăn khi người phụ trách bữa ăn nói với họ “Guten Appetit!” Sở thích Người Đức yêu thích công việc làm vườn. Hầu hết mọi người đều có một mảnh đất nhỏ bên ngoài thành phố. Họ làm vườn ở bất cứ nơi nào thích hợp, thậm chí ở khu vực đô thị. Thần lùn canh vườn không chỉ là một yếu tố trang trí mà chúng đã trở thành một phần của văn hóa ở đây. Vào những năm 90, có một trò chơi khăm rất phổ biến – đánh cắp thần lùn từ bãi cỏ của người khác và sau đó gửi ảnh chúng cho chủ sở hữu trước khi quyết định trả lại. Hóa ra người Đức ở mọi lứa tuổi cũng đam mê bóng đá như người Ý hoặc người Tây Ban Nha. Sở thích tìm kiếm ưu đãi mua sắm và tiết kiệm tiền rất phổ biến ở Đức. Những người luôn luôn tìm cho mình những giao dịch tốt nhất được gọi là Schnäppchenjäger, hoặc “thợ săn sale.” Trang phục Trên một con phố ở Berlin, bạn sẽ rất khó tìm được một người mặc quần áo sáng màu. Người dân nơi đây ưa chuộng các màu tối, đặc biệt là màu đen. Dù với mức thu nhập nào đi nữa thì người Đức đều mua quần áo tại các cửa hàng đồ cũ. Chúng thông dụng, có lợi cho kinh tế và thân thiện với môi trường. Có thể đây chỉ là quan điểm cá nhân của tôi nhưng người Đức dường như yêu thích những chiếc khăn quàng cổ. Một công dân Đức bình thường sẽ có một bộ sưu tập gồm rất nhiều thể loại khăn, từ những chiếc khăn thời trang đến khăn giữ ấm. Còn bạn thì sao? Có gì đặc biệt và hay ho mà bạn biết về nước Đức và người dân ở đó không? Chuyển dịch: Hương Giang Minh họa: Huyền Kiu Bài viết gốc: 25 Fakten über Deutschland für Ausländer
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi câu hỏi này hay chưa: “Tại sao tiếng Đức cần có sự tồn tại của Nominativ, Akkusativ và Dativ?”. Vậy thì trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này, đồng thời khám phá mô hình tiếp theo trong việc xây dựng câu của tiếng Đức, mô hình ngữ pháp truyền thống, hay còn được gọi là mô hình SPO. SPO chính là viết tắt của Subjekt (chủ ngữ), Prädikat (hành động) và Objekt (tân ngữ). Nó được gọi là mô hình ngữ pháp truyền thống bởi vì nó mang điểm chung của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới: không có bất kì ngôn ngữ nào mà khi dựng một câu cơ bản, bạn không thể chỉ ra đâu là chủ ngữ, đâu là hành động và đâu là tân ngữ (nếu có). Mô hình SPO coi chủ ngữ (chủ thể gây ra hành động) là trọng tâm của một câu và các thành phần khác sẽ phụ thuộc vào chủ ngữ. Chủ ngữ ở trình độ cơ bản có thể là danh từ (Substantiv), lên cao dần sẽ mở rộng ra thêm, bao gồm đại từ (Pronomen), động từ nguyên thể được cấu tạo thành danh từ (Infinitiv), cụm từ mang giá trị danh từ (Nominalphrase) hay cụm từ được cấu tạo từ Partizip I hoặc II (Partizipialkonstruktion). Về mặt cơ bản, chủ ngữ trong một câu là bắt buộc phải có. Thậm chí ngay cả trong những trường hợp mà không chủ thể nào gây ra hành động được nhắc tới thì người Đức vẫn thêm vào đó một chủ ngữ giả, ví dụ như: Es regnet (trời mưa) Es ist unmöglich (không thể nào) Như vậy, khi một câu đã có chủ ngữ (Subjekt) thì chủ ngữ đó phải tạo ra hành động nào đó (Prädikat) và trong rất nhiều trường hợp thì hành động đó cũng phải hướng tới các đối tượng cụ thể (Objekt). Các bạn có thể thấy, cách sắp xếp trình tự như vậy rất logic và dễ để nghĩ ra. Ngoài ra, tiếng Việt của chúng ta hay tiếng Anh cũng hầu như đều xây dựng câu cơ bản theo trình tự như vậy. Thế tại sao tiếng Việt hay tiếng Anh lại không cần cách (Kasus), còn tiếng Đức lại cần? Như chúng ta đã biết, có một quy tắc về việc sắp xếp các từ trong một câu chính (Hauptsatz) của tiếng Đức là: Trừ động từ, ta có thể đảo bất kì thành phần nào mà ta muốn lên đầu câu và câu vẫn đảm bảo đúng ngữ pháp (dĩ nhiên có trường hợp ngoại lệ nhưng mình không muốn nhắc tới trong bài này). Vậy thì khi câu có từ 2 danh từ (không đi kèm giới từ) trở lên, làm thế nào ta biết được danh từ nào là chủ ngữ? Trước tiên, ta cùng xem ví dụ sau: Ich sehe die Dörfer. (Tôi nhìn thấy những ngôi làng.) Die Dörfer sieht jeder von uns. (Ai trong chúng tôi cũng nhìn thấy những ngôi làng.) Ở trường hợp này, việc chia động từ sẽ giúp chúng ta xác định chủ ngữ, bởi vì động từ chính của câu sẽ luôn được chia theo chủ ngữ (ngôi “ich” là “sehe” và ngôi “jeder” là “sieht”). Vậy còn trường hợp này thì sao? Doraemon liebt jedes Kind. Câu này nên được hiểu như thế nào? Liệu là Doraemon yêu quý từng đứa trẻ hay là đứa trẻ nào cũng yêu quý Doraemon? Cả 2 cách hiểu đều đúng ngữ pháp nhưng nếu không có sự xuất hiện của Kasus thì dựa vào trình tự SPO hay thông qua đối chiếu tiếng Việt, người đọc có xu hướng nghiêng về cách hiểu đầu tiên hơn. Vậy thì để tránh hiểu nhầm, tiếng Đức cần có Nominativ (để biểu thị chủ ngữ) và Akkusativ/Dativ (để biểu thị tân ngữ). Ngoài ra, trong nhiều thứ tiếng (trong đó có tiếng Đức), một danh từ luôn có thể được thay thế bằng một đại từ. Tiếng Đức với đặc tính về giống của danh từ luôn đòi hỏi thay thế một danh từ bằng đại từ mang giống tương đồng với nó. Vậy giả sử nếu tân ngữ chỉ có thể được biểu thị bằng Akkusativ và trong 1 câu có 2 tân ngữ, trường hợp sau đây có thể xảy ra: Die Kreditkarte gibt er Anna. (Anh ấy đưa Anna thẻ tín dụng của anh ấy.) Sie gibt er sie. (Thay thế “Anna” bằng “sie” và “die Kreditkarte” bằng “sie”) Vậy vấn đề tương tự như trên lại xuất hiện: Anh ấy đưa thẻ tín dụng cho Anna hay anh ấy đưa Anna cho thẻ tín dụng? Để giải quyết vấn đề này, tiếng Đức cần có Akkusativ để chỉ vật và Dativ để chỉ người trong trường hợp có nhiều hơn một tân ngữ. Sự xuất hiện của Nominativ, Akkusativ và Dativ là chưa đủ để biết chắc danh từ nào đóng vai trò là chủ ngữ của câu, nhưng nó là cần thiết để tạo ra tính tương phản về mặt ngữ pháp nhằm giúp người học, đặc biệt ở trình độ sơ cấp, dễ tiếp cận tiếng Đức hơn. Quay lại với SPO, như chúng ta đã thấy ở các ví dụ phía trên, việc chủ ngữ nắm vai trò chính sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc chia động từ (như đã nói, động từ chính luôn chia theo chủ ngữ). Ngoài ra, việc xác định rõ chủ ngữ và hành động trước tiên trong những cấu trúc câu ghép, câu có nhiều danh từ hoặc khi câu có quá nhiều thành phần bổ trợ sẽ giúp chúng ta gỡ rối nhanh hơn, qua đó tăng đáng kể tốc độ đọc hiểu văn bản. Tuy vậy, SPO có một điểm yếu cực lớn là không giúp người học nắm được các thành phần hỗ trợ động từ như Valenz và không giúp người học định hình về việc sắp xếp thứ tự các từ trong câu như Felder. Ngoài ra, việc lấy chủ ngữ làm trọng tâm cũng vấp phải trở ngại lớn khi có không ít trường hợp đặc biệt về việc xây dựng câu không có hoặc rút gọn chủ ngữ. Cuối cùng, một ngoại lệ nữa về quy tắc chủ ngữ luôn ở Nominativ là những tân ngữ đứng sau động từ sein, werden, bleiben, heißen,… cũng đi cùng với Nominativ. Nói chung là cứ ngoại lệ là không vui rồi xD. Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Từ vựng, Ngữ pháp, Thành Ngữ: Đó là những gì mà bộ não cần để nhận ra một ngôn ngữ mới. Nhà xuất bản và các trung tâm dạy tiếng quảng cáo những công thức học thành công, giáo viên thì hứa hẹn những phương pháp học được cá nhân họ phát triển, còn các bạn học viên thì truyền tai nhau các mẹo vặt. Mục đích là: làm sao thành thạo ngoại ngữ càng nhanh càng tốt để có thể sử dụng nó trong cuộc sống hàng ngày. Trong nhiều năm gần đây, các nhà nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu điều gì xảy ra trong não bộ khi ta học ngoại ngữ. Mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp trong lĩnh vực nghiên cứu này, nhưng có một điều chắc chắn: không có một phương pháp học tập nào là tối ưu cả. Nhưng có một vài kiến thức mà người học ngôn ngữ cần lưu tâm nếu họ muốn đạt được thành công nhanh chóng. Học từ vựng: Cách kết nối mạng lưới cho não bộ Khác với một cuốn từ điển, cái gọi là “từ vựng tinh thần” – nơi lưu trữ từ vựng trong não của chúng ta – giống như một mạng lưới khổng lồ: các từ và cách diễn đạt phù hợp có thể được kết hợp thành câu trong nháy mắt bằng cách sử dụng vô số liên kết. Một từ được kết nối càng tốt thì chúng ta càng dễ dàng nhớ ra nó trong trường hợp cấp thiết. Để tạo nên một mạng lưới như vậy, ta cần lưu ý 2 điểm quan trọng: số lượng và chất lượng. Khi nhắc đến số lượng, ta có thể dễ dàng nhận thấy: Nếu chúng ta thường xuyên dùng một từ, thì não chúng ta luôn trong tư thế sẵn sàng để cung cấp từ đó. Người học ngoại ngữ tạo ra rất nhiều ảnh hưởng lên chất lượng của mạng lưới đó: chúng ta càng có nhiều ký ức, cảm xúc hoặc liên tưởng với một cách diễn đạt ngôn ngữ, thì bộ não càng dễ dàng tiếp cận nó. Hẳn ai trong chúng ta cũng từng có trải nghiệm vật lộn để nhớ từ vựng trong một cuộc trò chuyện: Đáng ra chúng ta phải biết từ đó, thậm chí là còn phải nhớ nó nằm ở danh sách từ vựng chương nào của giáo trình. Nhưng chúng ta hoàn toàn không thể nhớ ra từ đó, thậm chí chúng ta còn cảm thấy hơi khó chịu với chính mình. Điều này chỉ được giải quyết khi có người giúp chúng ta tìm được từ đó. Kể từ thời điểm đó, từ này sẽ ở lại trong não và có thể được gợi nhớ bất cứ lúc nào – bởi vì bây giờ chúng ta đã kết nối nó với ký ức và cảm giác. Vì vậy, điều quan trọng là thực hành với những từ vựng mới: tạo các câu ví dụ, nghĩ ra các tình huống mà chúng ta có thể sử dụng chúng hoặc chỉ để nghĩ xem liệu chúng ta có thấy từ đó đẹp hay không và nếu có thì tại sao. Đặc biệt, các câu ví dụ là một công cụ hoàn hảo hỗ trợ trí nhớ cho não bộ. Các nhà ngôn ngữ học khuyên rằng hãy luôn học từ vựng theo cách kết hợp từ. Cách này còn có một lợi thế khác: Nó không chỉ hỗ trợ kết nối mạng lưới từ vựng, mà còn có thể tránh vấp khi sử dụng ngôn ngữ đó. Ví dụ, nếu ai đó mới học rằng xe buýt có nghĩa là ‘bus’ trong tiếng Anh, có khả năng họ sẽ diễn đạt sai thành câu sau: „I drive with the bus“. Nếu ta học từ đó với những kết hợp điển hình như „I go by bus“ hoặc „I get off the bus“, chúng ta có thể tránh được những lỗi như vậy. Nghiên cứu về khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ em cho thấy kiểu học này đặc biệt phù hợp với cách học của não bộ: trẻ em đầu tiên học các cách diễn đạt cố định bằng tiếng mẹ đẻ và sau đó chỉ học các từ riêng lẻ. Ví dụ, họ sớm biết rằng “chúc ngủ ngon” (Gute Nacht) luôn được nói trước khi đi ngủ. Mãi sau này, não của họ mới phân tích được rằng chúng là hai từ độc lập. Hãy tắm ngôn ngữ Du lịch là cơ hội tốt nhất để tắm ngôn ngữ. Nhưng ngay cả khi ở nhà thì ta vẫn có nhiều cơ hội để luyện tập điều này. Các nhà nghiên cứu về não bộ biết rằng: bộ não của chúng ta gần như tự học, miễn là chúng ta có đủ thông tin đầu vào và cơ hội để thực hành. Do đó, bất kỳ tình huống nào có giao tiếp thực tế, không phải là học mà là về các nội dung khác, đều hữu ích cho việc học ngôn ngữ. Ngay cả khi trưởng thành, chúng ta vẫn có thể hưởng lợi từ khả năng học ngôn ngữ bẩm sinh này. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào cũng dễ dàng tìm được cơ hội thực hành, vì ở Đức hiếm khi có nhu cầu thực sự về việc sử dụng ngoại ngữ (và ở nhiều quốc gia khác cũng vậy). Bất kỳ ai sẵn sàng học hỏi đều có thể tạo ra một vài cơ hội để tắm ngôn ngữ. DVD mang đến cơ hội xem phim hoặc phim dài tập bằng ngôn ngữ gốc. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng phụ đề bằng tiếng nước ngoài: Các nghiên cứu cho thấy hầu như không có bất kỳ hiệu quả học tập nào cả khi có phụ đề bằng tiếng mẹ đẻ. Ngay cả Internet cũng có thể được sử dụng để học ngôn ngữ. Ví dụ, những người đăng bài viết về chủ đề yêu thích của họ trên một diễn đàn ngoại ngữ, trò chuyện hoặc viết bằng một ngôn ngữ khác, là đã tham gia quá trình tương tác và học tập. Ngay cả những người thích hát theo các bài hát tiếng Anh yêu thích của họ cũng đang làm điều gì đó cho kỹ năng ngoại ngữ của họ – nói cho cùng thì chúng ta đang học thuộc lòng một đoạn văn bản dài hơn với lời bài hát, qua việc đó vô số tổ hợp từ lại được cung cấp cho não bộ chúng ta, và giúp chúng ta mở rộng vốn từ vựng của mình. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết là chúng ta không chỉ hát theo một cách thiếu suy nghĩ mà còn phải xử lý văn bản – ví dụ bằng cách tự hỏi liệu chúng ta có chọn những từ này hay chúng ta sẽ thể hiện, diễn đạt từ đó như thế nào. No Fun No Gain Cho dù qua DVD, Internet hay khóa học ngôn ngữ – điều quan trọng nhất là, đã học thì phải vui. Bởi vì cảm giác tiêu cực là liều thuốc độc cho việc học: Khi buồn chán, sợ hãi hoặc áp lực phải thành công, bộ não sẽ từ chối làm nhiệm vụ của nó. Lý do: Hệ thống limbic, chịu trách nhiệm về phần thưởng trong não, không còn hoạt động nữa. Sự hợp tác giữa các dây thần kinh bị chậm lại và tập trung vào việc học sẽ khó hơn. Vì vậy, đó là một điều tốt khi các nhà nghiên cứu có thể đưa ra rõ ràng lời cảnh tỉnh cho cách học tập truyền thống đặc biệt đáng sợ: Bất cứ ai nghĩ rằng mình chưa nắm vững ngữ pháp cũng không nên quá buồn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng lỗi ngữ pháp không có ảnh hưởng đáng kể đối với giao tiếp. Chuyển dịch: Kobe Minh họa: Huyền Kiu Bài viết gốc: Fremdsprachen: So lernt das Gehirn am besten
1. Ăn sáng bằng bánh mì Người Đức vốn là một dân tộc thích ăn bánh mì. Có thể nói, nó đối với người dân ở đây giống như cơm của người Việt mình, ngày nào cũng có thể ăn nhiều bữa bánh mì mà không ngán, học sinh đi học mang thêm đồ ăn cũng là bánh mì cắt lát kẹp xúc xích hoặc phô-mai, nói chung từ người lao động đến người tri thức đều rất “nghiền”! Khác với người Việt, người Đức thường ăn các đồ nguội vào bữa sáng và bữa tối, ăn kèm với bánh mì. Bữa trưa hầu như là bữa chính nên họ ăn nóng. Nói về ẩm thực, người Đức có câu rằng: „Esse morgens wie ein Kaiser, mittags wie ein König und abends wie ein Bettelmann!“ – nghĩa là: “Hãy ăn sáng như một hoàng đế, ăn trưa như một vị vua và ăn tối như một kẻ ăn mày!” – để nói lên khẩu phần nên ăn của mỗi bữa. Như vậy, ăn sáng theo quan niệm của người Đức là bữa ăn quan trọng nhất. Nó giúp người ta nạp đủ năng lượng để khởi đầu một ngày mới đầy lạc quan và vui vẻ! Các nước Bắc Âu lạnh giá như Đức, Đan Mạch, Thụy Điển v.v… thường ăn sáng bằng những món “nặng bụng”, ví dụ bánh mì với phô-mai, xúc xích, trứng luộc, trứng đảo v.v… Vài gia đình tôi quen biết thậm chí còn dậy sớm vào cuối tuần để tự tay nhào bột làm bánh mỳ. Tất nhiên, người Đức cũng thích ăn ngọt vào bữa sáng, nhất là bánh mì mạch đen (Roggenmischbrot) ăn với mứt nhừ. Đặc biệt nhà nào có vườn thì hay tự làm mứt theo hoa quả từng mùa. Mỗi lần họ làm tới cả chục lọ, rồi đem tặng cho bạn bè, bà con làng xóm nữa. 2. Phơi quần áo đúng…công thức Trong cuộc sống hàng ngày, người Đức có những “công thức” rất riêng và rất đặc biệt, nhưng chúng giống như “nguyên tắc bất thành văn” mà dường như ai cũng tuân thủ theo. Một đặc điểm nổi bật mà tôi quan sát thấy và học được từ người Đức là “phong cách phơi quần áo” của họ: Họ chia các dây phơi ra thành nhiều phần, mỗi một đoạn dây lại phơi một kiểu quần áo như nhau, quần dài đi với quần dài, áo đi với áo, đồ lót phơi chung với nhau, cả khăn và tất cũng phơi gộp cùng chủng loại, thành từng đôi, chứ không phơi lung tung cái này lẫn lộn cái kia bao giờ. Quả thật, khi bạn phải mang phơi quần áo thì cũng hơi mất công, nhưng khi rút quần áo lại đỡ được rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó, bạn sẽ rất dễ dàng tìm được đồ của mình, tất phơi theo từng đôi nên bạn sẽ nhanh chóng phát hiện chúng có bị thất lạc không v.v… 3. Lịch sự giống như…bộ quần áo để mặc! Một thói quen đơn giản của người Đức nhưng cũng khá khác lạ so với nhiều người Việt là dù bất cứ ai, từ trẻ con đến người lớn, cũng đều rất lịch sự. Những câu “cảm ơn”, “không dám” hay “xin lỗi” mà nhiều người Việt hay cho là “khách sáo”, thì lúc nào cũng thường trực trên môi người Đức, bất kể già trẻ lớn bé, và đúng là nếu không nói những câu đó thì bạn sẽ cảm giác như đang “trần truồng”, sẽ bị mọi người nhìn ngó và soi mói ngay! Trẻ em dù nhỏ đến mấy khi chào hỏi ông bà cũng bắt tay rất bình đẳng. Thậm chí lúc nói chuyện với trẻ, người ta thường hay ngồi xuống để làm sao mặt đối mặt. Từ bé, trẻ đã được học cách bày tỏ ý kiến của mình, dù đúng hay sai hay “khác người” thế nào, trẻ vẫn được mọi người tôn trọng. 4. Hòa mình cùng thiên nhiên! Người Đức có 3 đặc điểm mà có lẽ đi đâu bạn cũng thấy họ giống nhau: Thích ra ngoài hít thở không khí (Frische Luft schnappen) Hưởng thụ ánh nắng mặt trời (Die Sonne genießen) Thích tổ chức các chuyến dã ngoại bằng xe đạp (Radtouren machen)! Trong nhà người Đức trồng rất nhiều cây xanh. Nhà nào không có đất làm vườn thì thường thuê một khoảnh riêng, mùa hè cả nhà lại cùng nhau ra đó trồng cây, chăm sóc hoa và nướng thịt. 5. Trân trọng các nghề thủ công và cả những món quà tự tay bạn bè làm tặng! Các ngành nghề thủ công ở Đức đã có truyền thống rất lâu đời, càng nhiều tuổi và nổi tiếng thì các sản phẩm của họ càng đắt giá, từ thợ làm nhạc cụ, thợ kim hoàn, thợ đồng hồ đến thợ làm bánh mì, thợ mộc, thợ làm gốm sứ,… Nếu chơi thân với bạn người Đức, bạn sẽ được họ tự tay làm tặng những món quà nho nhỏ, có khi là tự ướp trà, tự móc những con thú treo chìa khóa be bé, có khi lại tự vẽ tranh, tự làm vòng đeo tay v.v… Không chỉ bạn thời học sinh mới làm thế đâu nhé, nếu bạn sống hòa đồng và vui vẻ với hàng xóm, bạn cũng sẽ rất nhanh nhận những món quà như vậy. Bạn có thể thấy không là gì, nhưng đối với họ, khi bỏ công sức và tâm huyết để làm ra chúng, nghĩa là họ thật sự rất yêu quý và trân trọng bạn, coi bạn như một “món quà có một không hai”, không thể tìm ở đâu khác. 6. Hưởng thụ mùa Giáng Sinh Đức! Có thể nói lễ Giáng Sinh ở Đức là kỳ nghỉ lễ quan trọng nhất trong năm, còn quan trọng hơn cả Năm Mới, giống như dịp Tết Nguyên Đán của Việt Nam mình vậy. Khá đặc trưng phải kể đến kì Advent (Adventszeit) là quãng thời gian trước Noel mà người người háo hức, nô nức chuẩn bị mọi thứ. Người ta bắt đầu làm bánh Plätzchen hoặc cầu kỳ hơn là Stollen, mua quà, lên kế hoạch cho những ngày nghỉ và tranh thủ đi thăm các chợ Noel với những phong tục, tập quán nổi tiếng trong vùng, rồi còn viết thiệp gửi đi chúc mừng nhau. Thời kỳ Advent vì thế mà chẳng khác nào một lễ hội đặc biệt. Advent hàng năm thường bắt đầu bằng ngày chủ nhật đầu tiên từ sau ngày 26.11., hay nói cách khác, đó là ngày chủ nhật đầu tiên trong số 4 ngày chủ nhật trước khi đến ngày 25.12. (1.Weihnachtstag) – năm nay, 1. Advent sẽ rơi vào ngày 29.11.. Trải qua rất nhiều năm, tùy theo tập tục các vùng mà lễ hội Advent cũng dần có những nghi lễ khác nhau, như những lễ diễu hành, những buổi trình diễn thánh ca, những đêm tưởng niệm cuối năm, trong đó có lễ hội Thánh Nikolaus dành cho trẻ em (6.12.) hay ngày Nữ Thánh Barbara cũng rất đặc biệt (4.12.) … Tất cả đều thể hiện thế giới tâm linh đa thần thánh của tổ tiên người Germani (Teutons). Biểu tượng quan trọng nhất của những phong tục, tập quán này chính là ánh sáng, được thể hiện qua ngọn lửa và ánh nến mà từ xa xưa, người Đức thời cổ đại đã thích thắp lên khắp nơi trong nhà vào những tháng mùa đông, nhằm đuổi đi tà ma, quỷ dữ khi bóng đêm và sự lạnh giá bao phủ khắp nơi. Như vậy, nến là thứ không thể thiếu trong kì lễ Advent và vào dịp Giáng Sinh. Vào ngày Chủ nhật 1. Advent, người ta bắt đầu thắp lên ngọn nến đầu tiên, và cứ thế mỗi ngày chủ nhật tiếp theo lại thắp thêm một ngọn nến, cho đến khi 4 ngọn nến cháy hết thì cũng là lúc người ta sẽ thắp sáng cây Noel. Theo truyền thống thì phải đến chiều ngày 24.12., Heiligabend, người ta mới bắt đầu trang trí cây thông bằng những hình thiên thần, những quả cầu thủy tinh đủ màu sắc, cũng như rất nhiều hình thù khác nhau nữa như hình sao, hình bông tuyết, hình bánh gừng (Lebkuchen), và quan trọng nhất là những ngọn nến hoặc chuỗi đèn thắp sáng được mắc xung quanh cây… Tác giả: Cẩm Chi Minh họa: Minh Lý
Kể từ thế kỷ thứ 13, dưới thời vua Heinrich (Henry) Đệ Tam (1207-1272), người ta đã chọn ngày chủ nhật giữa chu kỳ tuyệt thực (Mittfasten) mang tên Laetare làm ngày để tưởng niệm Đức Mẹ Giáo Hội và cũng là ngày cảm ơn người mẹ đã sinh ra mình.Nhưng phải đến năm 1907 thì Ngày Lễ Người Mẹ mang tư tưởng hiện đại như hôm nay mới chính thức “ra đời” – do một lời thề của cô Anna Jarvis sống tại Philadelphia (Mỹ) rằng, cô sẽ không “để yên”, cho đến khi cả thế giới biết và cùng kỷ niệm ngày này!! Và quả thật cô đã đạt được mục tiêu của mình: Vào ngày 9.5.1914, Tổng thống Wilson đã tuyên bố đặt ngày Chủ Nhật thứ 2 của tháng 5 hàng năm là “ngày bày tỏ tình yêu và lòng biết ơn đối với tất cả những người Mẹ trên cả nước”!! Đến hôm nay, không chỉ Mỹ hay Châu Âu, mà nhiều nơi khác trên thế giới cũng đều biết đến “Ngày của Mẹ”. Nhân ngày này, chúng mình xin chúc tất cả những người Mẹ trên khắp thế giới thật hạnh phúc và nhiều sức khỏe! Tác giả: Cẩm Chi
Adverb/số nhiều là Adverbien – hay còn gọi là Umstandswort – tiếng Việt gọi chung là trạng từ – dùng để miêu tả cụ thể hơn về tình trạng và hoàn cảnh của sự việc, và đặc biệt, chúng là những từ không bao giờ biến đổi hay có thể chia ra các cách. Có 4 loại trạng từ sau: Trạng từ chỉ nơi chốn (Lokaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wo? wohin? woher? – ví dụ: dort, hinten, draußen, links, hier, oben, dort,… Trạng từ chỉ thời gian (Temporaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wann? wie lange? wie oft? – ví dụ: heute, abends, bald, jetzt, sofort, gleich,… Trạng từ chỉ cách thức/trạng thái (Modaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wie? auf welche Weise? – ví dụ: gern, barfuß, sehr gut, vergebens,… Trạng từ chỉ lý do/nguyên nhân (Kausaladverbien) – trả lời cho câu hỏi warum? weshalb? – ví dụ: darum, notfalls, deshalb,… 1. Chức năng Trạng từ… là một thành phần riêng biệt và độc lập trong câu. Ví dụ: HIER werden Häuser gebaut. là một bổ ngữ khi nó đi theo một từ nào hay một nhóm từ nào đó. Ví dụ: SEHR gut, ABER AUCH GANZ normal, ZIEMLICH langweilig,… là bổ ngữ cho danh từ và sẽ được đặt ngay sau danh từ đó. Ví dụ: der Mann DA HINTEN, die Straße LINKS, die Frau DORT OBEN,… đứng trong một cụm từ đi kèm động từ (bổ ngữ cho động từ). Ví dụ: ich komme SPÄTESTENS MORGEN ZURÜCK. có thể thay thế cho một nhóm danh từ. Ví dụ: wir reden über die Geburtstage unserer Freunde – WORÜBER redet ihr?? 2. Vị trí Trạng từ vừa có thể đứng ở đầu câu, vừa có thể đứng ở giữa câu. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cách khác nữa để đặt trạng từ trong câu mà chỉ khi tập đặt câu cũng như giao tiếp nhiều, các bạn mới nắm bắt nhanh, hiểu và áp dụng chuẩn hơn! a. Trạng từ đứng ở đầu câu thì ta nhận thấy rất đơn giản, vì thông thường thì khi ấy, vị ngữ (Prädikat) sẽ đứng thứ 2, ngay sau trạng từ! ENDLICH treffen wir uns. HEUTE scheint die Sonne. SO sprechen sie miteinander. b. Nếu trạng từ đứng giữa câu thì ta sẽ có nhiều lựa chọn và cần chú ý một số nguyên tắc sau: Trạng từ sẽ đứng TRƯỚC tân ngữ chỉ vật (Akkusativobjekt) và đứng SAU tân ngữ chỉ người (Dativobjekt): Ich kaufe mir (Dativ) SCHLIEßLICH eine neue Hose (Akkusativ). Er gibt sich STETS Mühe. Sie zeigte mir (Dativ) GERN ihre selbstgemachte Plüschtiere (Akkusativ). Đặc biệt, để nhấn mạnh hay cường điệu câu kể, ta có thể đặt trạng từ ngay SAU Akkusativobjekt: Sie kann ihn NIRGENDS finden. Er liebt mich DOCH. Trạng từ không được đặt trước đại từ (Pronomen). Nếu Akkusativobjekt và Dativobjekt đều là đại từ (thay thế cho danh từ đã nhắc ở câu trước), thì trạng từ phải đặt SAU 2 đại từ đó: Sie fragte die Verkäuferin, ob sie sie (die Hose) ihr FREUNDLICHERWEISE zur Probe überlassen könnte. Nếu trong câu không có tân ngữ, trạng từ sẽ đứng ngay SAU động từ đã được chia: Ich kann LEIDER nicht kommen. Er kocht MANCHMAL selbst. Sie überlegt ZURZEIT, die Arbeit zu wechseln. Nếu câu có tân ngữ và thời gian, địa điểm đi kèm giới từ (Präposition), ta phải đặt trạng từ TRƯỚC giới từ: Ich treffe mich MANCHMAL mit meinen Freunden zum Kaffeetrinken. Sie ging GESTERN zum Arzt. Tác giả: Cẩm Chi
Trong quá trình học ngoại ngữ nói chung hay tiếng Đức nói riêng, ta sẽ càng tự tin trong việc ứng dụng ngôn ngữ nếu ta càng biết nhiều những cụm từ mang nghĩa cố định (feste Wendungen). Một trong số đó phải kể tới thành ngữ (Redewendung). Chúng là những cụm từ mang nghĩa cố định nhưng người đọc không thể suy luận ra ý nghĩa của cả cụm từ chỉ bằng việc hiểu nghĩa từng thành phần của nó. Từ đây ta lại có các cấp độ khác nhau của thành ngữ như sau: 1. Cụm từ mang nghĩa bóng toàn phần (vollidiomatische Wendungen) Ở nhóm này, tất cả các thành phần cấu thành của cụm từ đều từ bỏ ý nghĩa đơn lẻ để phục vụ chung cho một ý nghĩa tổng thể ẩn phía sau. Ví dụ trong cụm “jemand macht aus einer Mücke einen Elefanten” (ai đó biến con kiến thành con voi) không hề liên quan gì đến bản thân con voi và con kiến, mà nó chỉ mang đến cho chúng ta một hình ảnh tượng hình để so sánh với việc một người thích nghiêm trọng hóa một sự việc nhỏ (tương tự câu “chuyện bé xé ra to” trong tiếng Việt). Sau đây là một vài ví dụ khác thuộc nhóm này: a. jemandem Jacke wie Hose sein: điều gì đó không có ý nghĩa gì hay không mang lại sự khác biệt nào. Es ist ihm Jacke wie Hose, was es heute Abend zu essen gibt. (Đối với anh ấy thì dù tối nay có gì ăn thì cũng chẳng có gì khác nhau.) b. vor jemandem/etwas den Hut ziehen: thể hiện sự tôn trọng/tán thưởng với ai hoặc điều gì. Vor den Feuerwehrleuten, die sich zu jeder Zeit bereit erklären, ehrenamtlich Hilfe zu leisten, kann man nur den Hut ziehen. (Ta chỉ có thể ngả mũ thán phục trước những người lính cứu hỏa, những người luôn sẵn sàng tình nguyện giúp đỡ (những người bị nạn) bất kể thời gian nào.) 2. Cụm từ mang nghĩa bóng một phần (teilidiomatische Wendungen) Ở nhóm này, một thành phần nào đó của cụm từ vẫn giữ ý nghĩa gốc của nó (thường là động từ) nhưng toàn bộ nội dung câu lại mang ý nghĩa khác. Ví dụ trong cụm “jemand staunt Bauklötze”, động từ “staunen” vẫn mang ý nghĩa gốc của nó nhưng về mặt ngữ pháp, động từ này đáng ra không thể đi cùng danh từ “Bauklötze”. Cụm từ này thực chất mang ý nghĩa là ai đó đang rất rất bất ngờ. Sau đây là một vài ví dụ khác thuộc nhóm này: a. jemand lebt auf großem Fuß: ai đó sống một cuộc sống giàu sang, tận hưởng Niemand weiß, wie er es sich leisten kann, auf großem Fuß zu leben. (Không ai biết anh ta đã làm thế nào để có thể có được một cuộc sống hưởng thụ như vậy.) b. jemand hat eigene vier Wände: ai đó có một nơi để ở (một ngôi nhà, một căn hộ,…) In ihren eigenen vier Wänden durfte sie machen, was sie wollte. (Trong không gian riêng của mình, cô ấy được phép làm tất cả những gì cô ấy muốn.) 3. Cụm từ không mang nghĩa bóng (nichtidiomatische Wendungen) Về cơ bản, đây chính là những cụm danh từ đi với động từ xác định (formelhafte Wendungen). Ở đây, tất cả các thành phần của cụm từ đều mang ý nghĩa gốc của nó nên người học thường không gặp khó khăn gì trong việc đọc hiểu. Ví dụ cụm “jemand gießt Blumen” không mang ý nghĩa gì khác ngoài nghĩa gốc là ai đó đang tưới hoa. Tuy vậy, vì không được xem là thành ngữ, người học có xu hướng không để ý đến các cụm từ này. Hệ quả là người học sẽ không biết danh từ nào sẽ có thể đi với động từ nào theo tiêu chuẩn của người Đức, dẫn đến những lỗi sai về mặt diễn đạt (Ausdruck), một trong những lỗi sai phổ biến nhất khi học tiếng Đức (tham khảo thêm các ví dụ và lỗi sai trong bài viết “Tại sao nên học từ theo cụm?”). Tác giả: Kobe Minh họa: Quỳnh Trang
Trong số những từ cơ bản mình từng gặp, mit có lẽ nằm trong nhóm có cách sử dụng đa dạng nhất. Ở bài viết này, mình sẽ giới thiệu với các bạn về các nét nghĩa và cách sử dụng của mit trong các văn cảnh khác nhau. A. Dưới tư cách giới từ (Präposition) Khi làm giới từ, mit chắc chắn sẽ phải đi cùng với một danh từ/đại từ khác và danh từ/đại từ đó được chia ở Dativ. Trong từng trường hợp cụ thể, mit sẽ: 1. thể hiện sự đồng nhất, tính cộng đồng, hay việc hợp tác với một hoặc nhiều cá thể khác trong một hoạt động nào đó, ví dụ: Sie war mit uns in der Stadt. (Cô ấy đã ở trong thành phố cùng chúng tôi.) Willst du mit uns essen? (Bạn có muốn ăn cùng chúng tôi không?) 2. thể hiện tính chất qua lại trong một hành động cụ thể nào đó, ví dụ: Sie besprechen sich mit den Kunden. (Họ bàn bạc (qua lại) với khách hàng.) Ich denke, es ist besser miteinander zu reden anstatt sich miteinander zu streiten. (Tôi nghĩ tốt hơn là nói chuyện với nhau thay vì gây gổ.) 3. thể hiện sự liên quan (chủ động hay bị động) vào một hành động hoặc một quá trình, ví dụ: Verkehrsunfälle mit Kindern (Tai nạn giao thông liên quan đến trẻ em) 4. thể hiện sự sở hữu, ví dụ: Herr Müller mit Frau (Ngài Müller cùng vợ) Ein Haus mit Garten (Một ngôi nhà có vườn) 5. thể hiện tính bao gồm (đồng nghĩa với einschließlich, samt), ví dụ: Der Preis beträgt 50 Euro mit Bedienung. (Giá tiền là 50 Euro đã bao gồm (phí) dịch vụ.) Mit mir sind es acht Gäste. (Tính cả tôi là (ta) có 8 vị khách.) 6. thể hiện rằng một vật chứa bất kì nào đó đang chứa thứ gì, ví dụ: Ein Haus mit drei Schlafzimmern (Một ngôi nhà có 3 phòng ngủ) Ein Glas mit Honig (Một lọ thủy tinh chứa mật ong) 7. thể hiện hoàn cảnh đi kèm với một sự việc hay cách thức mà sự việc đó diễn ra, ví dụ: Wir essen mit Appetit. (Chúng tôi ăn với cảm giác ngon miệng – Chúng tôi (sẽ) ăn thật ngon.) Das hat er mit Absicht getan. (Anh ta đã cố tình làm thế.) 8. nói tới công cụ (hỗ trợ) cho một hoạt động nào đó, ví dụ: Sich die Hände mit Seife waschen (Rửa tay với xà phòng) Er ist mit dem Auto gefahren. (Anh ấy đã tới đây bằng ô tô.) 9. thể hiện mối liên kết giữa động từ và tân ngữ trong một câu, ví dụ: Es geht langsam voran mit der Arbeit. (Công việc đang tiến triển dần dần – khi không có “mit der Arbeit”, người đọc không thể hiểu được thứ gì đang tiến triển) Was ist los mit dir? (Có chuyện gì xảy ra với bạn vậy? – khi không có “mit dir”, người đọc không hiểu cụ thể câu hỏi đang hướng tới ai) 10. thể hiện tính hài hòa, liên tục của một sự việc hay một chuyển động, ví dụ: mit Strömung rudern (chèo (thuyền) xuôi theo dòng chảy) Sie gehen mit der Zeit. (Họ đi cùng thời đại – có nghĩa là họ thích ứng với dòng chảy thời đại cũng như những thay đổi của nó) 11. thể hiện việc một sự kiện, một sự việc nào đó rơi vào đúng khoảng thời gian nào, ví dụ: Mit 18 Jahren bin ich nach Deutschland geflogen. (Tôi bay đến Đức vào năm 18 tuổi.) Mit dem heutigen Tag ist die Frist abgelaufen. (Thời hạn đã kết thúc vào ngày hôm nay.) B. Dưới tư cách trạng từ (Adverb) Điều này có lẽ sẽ gây ra nhiều ngạc nhiên cho các bạn đang học tiếng Đức cơ bản, vì hầu như chúng ta đều được học rằng mit là một giới từ luôn luôn đi cùng Dativ. Tuy vậy, nếu bạn nào đã ở Đức được một thời gian thì chắc chắn không lạ gì với các ví dụ sau: Ich gehe mit nach oben. (Tôi sẽ đi cùng lên trên gác.) Das gehört nicht mit in die Wäsche. (Cái này không thuộc nhóm đồ cần giặt.) Trong những trường hợp này, mit được sử dụng đơn lẻ (tức là không đi cùng danh từ hay đại từ) và thể hiện sự tham gia mang tính tạm thời hoặc ý tưởng về sự liên kết (nét nghĩa gần như “auch”). Ngoài ra, mit cũng có thể được ghép trực tiếp vào rất nhiều động từ (tư cách tiền tố) để mang đến nét nghĩa tương tự (ví dụ: mitarbeiten, mitbringen, mitfahren, mitreißen, mitteilen,…). Về cơ bản, cách viết liền (dạng tiền tố) hay viết tách (dạng trạng từ) đều được chấp nhận, có nghĩa là: mitansehen và mit ansehen là như nhau mitberücksichtigen và mit berücksichtigen là như nhau mitnehmen và mit nehmen là như nhau Sau đây, chúng ta cùng xem qua các nét nghĩa khác nhau của mit ở dạng trạng từ: 1. cùng với cái khác, bên cạnh một hoặc vài thứ khác, cũng như, tương tự vậy (từ đồng nghĩa: auch, ebenfalls), ví dụ: Das gehört mit zu deinen Aufgaben. (Đó là một phần công việc của bạn.) Das musst du mit berücksichtigen. (Bạn cũng phải tính tới cả điều đó nữa.) 2. sử dụng cùng với so sánh nhất (Superlativ), thường chỉ dùng trong văn nói, ví dụ: Das ist mit das wichtigste der Bücher = Das ist eines der wichtigsten Bücher. (Đây là một trong những quyển sách quan trọng nhất.) 3. thể hiện một sự tham gia hay sự liên quan tạm thời khi sử dụng để bổ nghĩa cho một động từ, ví dụ: Kannst du ausnahmsweise einmal mit anfassen? (Bạn có thể cho một ngoại lệ và cùng chạm vào đây (với tôi) một lần được không?) Warst du auch mit? = Warst du auch dabei, bist du auch mitgegangen, mitgefahren? (Bạn có ở đó/đi cùng không?) 4. được sử dụng trong Umgangssprache ở phía bắc nước Đức: Được tách ra từ các từ như damit hay womit, ví dụ: Da habe ich nichts mit zu schaffen = Damit habe ich nichts zu schaffen. (Tôi không có gì để làm với điều đó.) Cách đây không lâu, mình đã đọc được một câu hỏi khá hay: Sự khác nhau giữa “Er nimmt den Hund nach Hause mit” và “Er nimmt den Hund mit nach Hause” là gì? Hi vọng bài viết trên đây của mình đã giúp bạn có câu trả lời cho câu hỏi đó! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu