Đã bao giờ chúng ta tự hỏi câu hỏi này hay chưa: “Tại sao tiếng Đức cần có sự tồn tại của Nominativ, Akkusativ và Dativ?”. Vậy thì trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này, đồng thời khám phá mô hình tiếp theo trong việc xây dựng câu của tiếng Đức, mô hình ngữ pháp truyền thống, hay còn được gọi là mô hình SPO.
SPO chính là viết tắt của Subjekt (chủ ngữ), Prädikat (hành động) và Objekt (tân ngữ). Nó được gọi là mô hình ngữ pháp truyền thống bởi vì nó mang điểm chung của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới: không có bất kì ngôn ngữ nào mà khi dựng một câu cơ bản, bạn không thể chỉ ra đâu là chủ ngữ, đâu là hành động và đâu là tân ngữ (nếu có). Mô hình SPO coi chủ ngữ (chủ thể gây ra hành động) là trọng tâm của một câu và các thành phần khác sẽ phụ thuộc vào chủ ngữ. Chủ ngữ ở trình độ cơ bản có thể là danh từ (Substantiv), lên cao dần sẽ mở rộng ra thêm, bao gồm đại từ (Pronomen), động từ nguyên thể được cấu tạo thành danh từ (Infinitiv), cụm từ mang giá trị danh từ (Nominalphrase) hay cụm từ được cấu tạo từ Partizip I hoặc II (Partizipialkonstruktion). Về mặt cơ bản, chủ ngữ trong một câu là bắt buộc phải có. Thậm chí ngay cả trong những trường hợp mà không chủ thể nào gây ra hành động được nhắc tới thì người Đức vẫn thêm vào đó một chủ ngữ giả, ví dụ như:
- Es regnet (trời mưa)
- Es ist unmöglich (không thể nào)
Như vậy, khi một câu đã có chủ ngữ (Subjekt) thì chủ ngữ đó phải tạo ra hành động nào đó (Prädikat) và trong rất nhiều trường hợp thì hành động đó cũng phải hướng tới các đối tượng cụ thể (Objekt). Các bạn có thể thấy, cách sắp xếp trình tự như vậy rất logic và dễ để nghĩ ra. Ngoài ra, tiếng Việt của chúng ta hay tiếng Anh cũng hầu như đều xây dựng câu cơ bản theo trình tự như vậy. Thế tại sao tiếng Việt hay tiếng Anh lại không cần cách (Kasus), còn tiếng Đức lại cần? Như chúng ta đã biết, có một quy tắc về việc sắp xếp các từ trong một câu chính (Hauptsatz) của tiếng Đức là: Trừ động từ, ta có thể đảo bất kì thành phần nào mà ta muốn lên đầu câu và câu vẫn đảm bảo đúng ngữ pháp (dĩ nhiên có trường hợp ngoại lệ nhưng mình không muốn nhắc tới trong bài này). Vậy thì khi câu có từ 2 danh từ (không đi kèm giới từ) trở lên, làm thế nào ta biết được danh từ nào là chủ ngữ? Trước tiên, ta cùng xem ví dụ sau:
- Ich sehe die Dörfer. (Tôi nhìn thấy những ngôi làng.)
- Die Dörfer sieht jeder von uns. (Ai trong chúng tôi cũng nhìn thấy những ngôi làng.)
Ở trường hợp này, việc chia động từ sẽ giúp chúng ta xác định chủ ngữ, bởi vì động từ chính của câu sẽ luôn được chia theo chủ ngữ (ngôi “ich” là “sehe” và ngôi “jeder” là “sieht”). Vậy còn trường hợp này thì sao?
- Doraemon liebt jedes Kind.
Câu này nên được hiểu như thế nào? Liệu là Doraemon yêu quý từng đứa trẻ hay là đứa trẻ nào cũng yêu quý Doraemon? Cả 2 cách hiểu đều đúng ngữ pháp nhưng nếu không có sự xuất hiện của Kasus thì dựa vào trình tự SPO hay thông qua đối chiếu tiếng Việt, người đọc có xu hướng nghiêng về cách hiểu đầu tiên hơn. Vậy thì để tránh hiểu nhầm, tiếng Đức cần có Nominativ (để biểu thị chủ ngữ) và Akkusativ/Dativ (để biểu thị tân ngữ).
Ngoài ra, trong nhiều thứ tiếng (trong đó có tiếng Đức), một danh từ luôn có thể được thay thế bằng một đại từ. Tiếng Đức với đặc tính về giống của danh từ luôn đòi hỏi thay thế một danh từ bằng đại từ mang giống tương đồng với nó. Vậy giả sử nếu tân ngữ chỉ có thể được biểu thị bằng Akkusativ và trong 1 câu có 2 tân ngữ, trường hợp sau đây có thể xảy ra:
- Die Kreditkarte gibt er Anna. (Anh ấy đưa Anna thẻ tín dụng của anh ấy.)
- Sie gibt er sie. (Thay thế “Anna” bằng “sie” và “die Kreditkarte” bằng “sie”)
Vậy vấn đề tương tự như trên lại xuất hiện: Anh ấy đưa thẻ tín dụng cho Anna hay anh ấy đưa Anna cho thẻ tín dụng? Để giải quyết vấn đề này, tiếng Đức cần có Akkusativ để chỉ vật và Dativ để chỉ người trong trường hợp có nhiều hơn một tân ngữ.
Sự xuất hiện của Nominativ, Akkusativ và Dativ là chưa đủ để biết chắc danh từ nào đóng vai trò là chủ ngữ của câu, nhưng nó là cần thiết để tạo ra tính tương phản về mặt ngữ pháp nhằm giúp người học, đặc biệt ở trình độ sơ cấp, dễ tiếp cận tiếng Đức hơn.
Quay lại với SPO, như chúng ta đã thấy ở các ví dụ phía trên, việc chủ ngữ nắm vai trò chính sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc chia động từ (như đã nói, động từ chính luôn chia theo chủ ngữ). Ngoài ra, việc xác định rõ chủ ngữ và hành động trước tiên trong những cấu trúc câu ghép, câu có nhiều danh từ hoặc khi câu có quá nhiều thành phần bổ trợ sẽ giúp chúng ta gỡ rối nhanh hơn, qua đó tăng đáng kể tốc độ đọc hiểu văn bản.
Tuy vậy, SPO có một điểm yếu cực lớn là không giúp người học nắm được các thành phần hỗ trợ động từ như Valenz và không giúp người học định hình về việc sắp xếp thứ tự các từ trong câu như Felder. Ngoài ra, việc lấy chủ ngữ làm trọng tâm cũng vấp phải trở ngại lớn khi có không ít trường hợp đặc biệt về việc xây dựng câu không có hoặc rút gọn chủ ngữ. Cuối cùng, một ngoại lệ nữa về quy tắc chủ ngữ luôn ở Nominativ là những tân ngữ đứng sau động từ sein, werden, bleiben, heißen,… cũng đi cùng với Nominativ. Nói chung là cứ ngoại lệ là không vui rồi xD.
Tác giả: Kobe
Minh họa: Huyền Kiu