1. Ăn sáng bằng bánh mì Người Đức vốn là một dân tộc thích ăn bánh mì. Có thể nói, nó đối với người dân ở đây giống như cơm của người Việt mình, ngày nào cũng có thể ăn nhiều bữa bánh mì mà không ngán, học sinh đi học mang thêm đồ ăn cũng là bánh mì cắt lát kẹp xúc xích hoặc phô-mai, nói chung từ người lao động đến người tri thức đều rất “nghiền”! Khác với người Việt, người Đức thường ăn các đồ nguội vào bữa sáng và bữa tối, ăn kèm với bánh mì. Bữa trưa hầu như là bữa chính nên họ ăn nóng. Nói về ẩm thực, người Đức có câu rằng: „Esse morgens wie ein Kaiser, mittags wie ein König und abends wie ein Bettelmann!“ – nghĩa là: “Hãy ăn sáng như một hoàng đế, ăn trưa như một vị vua và ăn tối như một kẻ ăn mày!” – để nói lên khẩu phần nên ăn của mỗi bữa. Như vậy, ăn sáng theo quan niệm của người Đức là bữa ăn quan trọng nhất. Nó giúp người ta nạp đủ năng lượng để khởi đầu một ngày mới đầy lạc quan và vui vẻ! Các nước Bắc Âu lạnh giá như Đức, Đan Mạch, Thụy Điển v.v… thường ăn sáng bằng những món “nặng bụng”, ví dụ bánh mì với phô-mai, xúc xích, trứng luộc, trứng đảo v.v… Vài gia đình tôi quen biết thậm chí còn dậy sớm vào cuối tuần để tự tay nhào bột làm bánh mỳ. Tất nhiên, người Đức cũng thích ăn ngọt vào bữa sáng, nhất là bánh mì mạch đen (Roggenmischbrot) ăn với mứt nhừ. Đặc biệt nhà nào có vườn thì hay tự làm mứt theo hoa quả từng mùa. Mỗi lần họ làm tới cả chục lọ, rồi đem tặng cho bạn bè, bà con làng xóm nữa. 2. Phơi quần áo đúng…công thức Trong cuộc sống hàng ngày, người Đức có những “công thức” rất riêng và rất đặc biệt, nhưng chúng giống như “nguyên tắc bất thành văn” mà dường như ai cũng tuân thủ theo. Một đặc điểm nổi bật mà tôi quan sát thấy và học được từ người Đức là “phong cách phơi quần áo” của họ: Họ chia các dây phơi ra thành nhiều phần, mỗi một đoạn dây lại phơi một kiểu quần áo như nhau, quần dài đi với quần dài, áo đi với áo, đồ lót phơi chung với nhau, cả khăn và tất cũng phơi gộp cùng chủng loại, thành từng đôi, chứ không phơi lung tung cái này lẫn lộn cái kia bao giờ. Quả thật, khi bạn phải mang phơi quần áo thì cũng hơi mất công, nhưng khi rút quần áo lại đỡ được rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó, bạn sẽ rất dễ dàng tìm được đồ của mình, tất phơi theo từng đôi nên bạn sẽ nhanh chóng phát hiện chúng có bị thất lạc không v.v… 3. Lịch sự giống như…bộ quần áo để mặc! Một thói quen đơn giản của người Đức nhưng cũng khá khác lạ so với nhiều người Việt là dù bất cứ ai, từ trẻ con đến người lớn, cũng đều rất lịch sự. Những câu “cảm ơn”, “không dám” hay “xin lỗi” mà nhiều người Việt hay cho là “khách sáo”, thì lúc nào cũng thường trực trên môi người Đức, bất kể già trẻ lớn bé, và đúng là nếu không nói những câu đó thì bạn sẽ cảm giác như đang “trần truồng”, sẽ bị mọi người nhìn ngó và soi mói ngay! Trẻ em dù nhỏ đến mấy khi chào hỏi ông bà cũng bắt tay rất bình đẳng. Thậm chí lúc nói chuyện với trẻ, người ta thường hay ngồi xuống để làm sao mặt đối mặt. Từ bé, trẻ đã được học cách bày tỏ ý kiến của mình, dù đúng hay sai hay “khác người” thế nào, trẻ vẫn được mọi người tôn trọng. 4. Hòa mình cùng thiên nhiên! Người Đức có 3 đặc điểm mà có lẽ đi đâu bạn cũng thấy họ giống nhau: Thích ra ngoài hít thở không khí (Frische Luft schnappen) Hưởng thụ ánh nắng mặt trời (Die Sonne genießen) Thích tổ chức các chuyến dã ngoại bằng xe đạp (Radtouren machen)! Trong nhà người Đức trồng rất nhiều cây xanh. Nhà nào không có đất làm vườn thì thường thuê một khoảnh riêng, mùa hè cả nhà lại cùng nhau ra đó trồng cây, chăm sóc hoa và nướng thịt. 5. Trân trọng các nghề thủ công và cả những món quà tự tay bạn bè làm tặng! Các ngành nghề thủ công ở Đức đã có truyền thống rất lâu đời, càng nhiều tuổi và nổi tiếng thì các sản phẩm của họ càng đắt giá, từ thợ làm nhạc cụ, thợ kim hoàn, thợ đồng hồ đến thợ làm bánh mì, thợ mộc, thợ làm gốm sứ,… Nếu chơi thân với bạn người Đức, bạn sẽ được họ tự tay làm tặng những món quà nho nhỏ, có khi là tự ướp trà, tự móc những con thú treo chìa khóa be bé, có khi lại tự vẽ tranh, tự làm vòng đeo tay v.v… Không chỉ bạn thời học sinh mới làm thế đâu nhé, nếu bạn sống hòa đồng và vui vẻ với hàng xóm, bạn cũng sẽ rất nhanh nhận những món quà như vậy. Bạn có thể thấy không là gì, nhưng đối với họ, khi bỏ công sức và tâm huyết để làm ra chúng, nghĩa là họ thật sự rất yêu quý và trân trọng bạn, coi bạn như một “món quà có một không hai”, không thể tìm ở đâu khác. 6. Hưởng thụ mùa Giáng Sinh Đức! Có thể nói lễ Giáng Sinh ở Đức là kỳ nghỉ lễ quan trọng nhất trong năm, còn quan trọng hơn cả Năm Mới, giống như dịp Tết Nguyên Đán của Việt Nam mình vậy. Khá đặc trưng phải kể đến kì Advent (Adventszeit) là quãng thời gian trước Noel mà người người háo hức, nô nức chuẩn bị mọi thứ. Người ta bắt đầu làm bánh Plätzchen hoặc cầu kỳ hơn là Stollen, mua quà, lên kế hoạch cho những ngày nghỉ và tranh thủ đi thăm các chợ Noel với những phong tục, tập quán nổi tiếng trong vùng, rồi còn viết thiệp gửi đi chúc mừng nhau. Thời kỳ Advent vì thế mà chẳng khác nào một lễ hội đặc biệt. Advent hàng năm thường bắt đầu bằng ngày chủ nhật đầu tiên từ sau ngày 26.11., hay nói cách khác, đó là ngày chủ nhật đầu tiên trong số 4 ngày chủ nhật trước khi đến ngày 25.12. (1.Weihnachtstag) – năm nay, 1. Advent sẽ rơi vào ngày 29.11.. Trải qua rất nhiều năm, tùy theo tập tục các vùng mà lễ hội Advent cũng dần có những nghi lễ khác nhau, như những lễ diễu hành, những buổi trình diễn thánh ca, những đêm tưởng niệm cuối năm, trong đó có lễ hội Thánh Nikolaus dành cho trẻ em (6.12.) hay ngày Nữ Thánh Barbara cũng rất đặc biệt (4.12.) … Tất cả đều thể hiện thế giới tâm linh đa thần thánh của tổ tiên người Germani (Teutons). Biểu tượng quan trọng nhất của những phong tục, tập quán này chính là ánh sáng, được thể hiện qua ngọn lửa và ánh nến mà từ xa xưa, người Đức thời cổ đại đã thích thắp lên khắp nơi trong nhà vào những tháng mùa đông, nhằm đuổi đi tà ma, quỷ dữ khi bóng đêm và sự lạnh giá bao phủ khắp nơi. Như vậy, nến là thứ không thể thiếu trong kì lễ Advent và vào dịp Giáng Sinh. Vào ngày Chủ nhật 1. Advent, người ta bắt đầu thắp lên ngọn nến đầu tiên, và cứ thế mỗi ngày chủ nhật tiếp theo lại thắp thêm một ngọn nến, cho đến khi 4 ngọn nến cháy hết thì cũng là lúc người ta sẽ thắp sáng cây Noel. Theo truyền thống thì phải đến chiều ngày 24.12., Heiligabend, người ta mới bắt đầu trang trí cây thông bằng những hình thiên thần, những quả cầu thủy tinh đủ màu sắc, cũng như rất nhiều hình thù khác nhau nữa như hình sao, hình bông tuyết, hình bánh gừng (Lebkuchen), và quan trọng nhất là những ngọn nến hoặc chuỗi đèn thắp sáng được mắc xung quanh cây… Tác giả: Cẩm Chi Minh họa: Minh Lý
admin
Kể từ thế kỷ thứ 13, dưới thời vua Heinrich (Henry) Đệ Tam (1207-1272), người ta đã chọn ngày chủ nhật giữa chu kỳ tuyệt thực (Mittfasten) mang tên Laetare làm ngày để tưởng niệm Đức Mẹ Giáo Hội và cũng là ngày cảm ơn người mẹ đã sinh ra mình.Nhưng phải đến năm 1907 thì Ngày Lễ Người Mẹ mang tư tưởng hiện đại như hôm nay mới chính thức “ra đời” – do một lời thề của cô Anna Jarvis sống tại Philadelphia (Mỹ) rằng, cô sẽ không “để yên”, cho đến khi cả thế giới biết và cùng kỷ niệm ngày này!! Và quả thật cô đã đạt được mục tiêu của mình: Vào ngày 9.5.1914, Tổng thống Wilson đã tuyên bố đặt ngày Chủ Nhật thứ 2 của tháng 5 hàng năm là “ngày bày tỏ tình yêu và lòng biết ơn đối với tất cả những người Mẹ trên cả nước”!! Đến hôm nay, không chỉ Mỹ hay Châu Âu, mà nhiều nơi khác trên thế giới cũng đều biết đến “Ngày của Mẹ”. Nhân ngày này, chúng mình xin chúc tất cả những người Mẹ trên khắp thế giới thật hạnh phúc và nhiều sức khỏe! Tác giả: Cẩm Chi
Adverb/số nhiều là Adverbien – hay còn gọi là Umstandswort – tiếng Việt gọi chung là trạng từ – dùng để miêu tả cụ thể hơn về tình trạng và hoàn cảnh của sự việc, và đặc biệt, chúng là những từ không bao giờ biến đổi hay có thể chia ra các cách. Có 4 loại trạng từ sau: Trạng từ chỉ nơi chốn (Lokaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wo? wohin? woher? – ví dụ: dort, hinten, draußen, links, hier, oben, dort,… Trạng từ chỉ thời gian (Temporaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wann? wie lange? wie oft? – ví dụ: heute, abends, bald, jetzt, sofort, gleich,… Trạng từ chỉ cách thức/trạng thái (Modaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wie? auf welche Weise? – ví dụ: gern, barfuß, sehr gut, vergebens,… Trạng từ chỉ lý do/nguyên nhân (Kausaladverbien) – trả lời cho câu hỏi warum? weshalb? – ví dụ: darum, notfalls, deshalb,… 1. Chức năng Trạng từ… là một thành phần riêng biệt và độc lập trong câu. Ví dụ: HIER werden Häuser gebaut. là một bổ ngữ khi nó đi theo một từ nào hay một nhóm từ nào đó. Ví dụ: SEHR gut, ABER AUCH GANZ normal, ZIEMLICH langweilig,… là bổ ngữ cho danh từ và sẽ được đặt ngay sau danh từ đó. Ví dụ: der Mann DA HINTEN, die Straße LINKS, die Frau DORT OBEN,… đứng trong một cụm từ đi kèm động từ (bổ ngữ cho động từ). Ví dụ: ich komme SPÄTESTENS MORGEN ZURÜCK. có thể thay thế cho một nhóm danh từ. Ví dụ: wir reden über die Geburtstage unserer Freunde – WORÜBER redet ihr?? 2. Vị trí Trạng từ vừa có thể đứng ở đầu câu, vừa có thể đứng ở giữa câu. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cách khác nữa để đặt trạng từ trong câu mà chỉ khi tập đặt câu cũng như giao tiếp nhiều, các bạn mới nắm bắt nhanh, hiểu và áp dụng chuẩn hơn! a. Trạng từ đứng ở đầu câu thì ta nhận thấy rất đơn giản, vì thông thường thì khi ấy, vị ngữ (Prädikat) sẽ đứng thứ 2, ngay sau trạng từ! ENDLICH treffen wir uns. HEUTE scheint die Sonne. SO sprechen sie miteinander. b. Nếu trạng từ đứng giữa câu thì ta sẽ có nhiều lựa chọn và cần chú ý một số nguyên tắc sau: Trạng từ sẽ đứng TRƯỚC tân ngữ chỉ vật (Akkusativobjekt) và đứng SAU tân ngữ chỉ người (Dativobjekt): Ich kaufe mir (Dativ) SCHLIEßLICH eine neue Hose (Akkusativ). Er gibt sich STETS Mühe. Sie zeigte mir (Dativ) GERN ihre selbstgemachte Plüschtiere (Akkusativ). Đặc biệt, để nhấn mạnh hay cường điệu câu kể, ta có thể đặt trạng từ ngay SAU Akkusativobjekt: Sie kann ihn NIRGENDS finden. Er liebt mich DOCH. Trạng từ không được đặt trước đại từ (Pronomen). Nếu Akkusativobjekt và Dativobjekt đều là đại từ (thay thế cho danh từ đã nhắc ở câu trước), thì trạng từ phải đặt SAU 2 đại từ đó: Sie fragte die Verkäuferin, ob sie sie (die Hose) ihr FREUNDLICHERWEISE zur Probe überlassen könnte. Nếu trong câu không có tân ngữ, trạng từ sẽ đứng ngay SAU động từ đã được chia: Ich kann LEIDER nicht kommen. Er kocht MANCHMAL selbst. Sie überlegt ZURZEIT, die Arbeit zu wechseln. Nếu câu có tân ngữ và thời gian, địa điểm đi kèm giới từ (Präposition), ta phải đặt trạng từ TRƯỚC giới từ: Ich treffe mich MANCHMAL mit meinen Freunden zum Kaffeetrinken. Sie ging GESTERN zum Arzt. Tác giả: Cẩm Chi
1. RỬA BÁT “KIỂU ĐỨC” Tuy lúc đó là một đứa trẻ, nhưng tôi còn nhớ như in những ngày đầu mới cùng gia đình sang Đức, có lần đến nhà một bác kia ăn cơm, xong xuôi thì mẹ bảo tôi giúp bác rửa bát đĩa. Bác ấy gạt đi và bảo: “Bác làm nhanh lắm, học của người Đức đấy, ra bác chỉ cho!” Vậy là bác ấy hứng đầy một bồn nước, cho khá nhiều nước rửa bát vào và bắt đầu rửa. Tôi đang nghĩ có gì khác người Việt đâu thì đã thấy bác ấy úp ngay từng chiếc bát, đĩa lên giá để bên cạnh, rồi bác bảo tôi lấy khăn lau cho khô. Quả thật tôi rất ngỡ ngàng! Tôi ấp úng hỏi: “Bác … rửa vậy có … bẩn không ạ?” Bác ấy cười ha ha rồi diễn thuyết cho tôi nghe một bài dài về nước rửa bát của Đức, nào là nó vừa sạch vừa không hại da, nào là người ta còn rửa tay được nữa cơ ấy, nào là người Đức chỉ rửa vậy thôi vì họ lau luôn nên không cần tráng làm gì cho tốn nước, hại môi trường vân vân và mây mây … Thế nhưng đã hơn 20 năm trôi qua tôi vẫn không thể quen với việc rửa bát như vậy, mặc dù khi đến nhà bạn Đức tôi vẫn “nhập gia tùy tục” (nhưng thông thường người Đức lại toàn dùng máy rửa bát nên cũng không rửa tay nữa rồi ạ!!). Còn trước đây, khi nhà tôi chưa “học theo người Đức” tậu máy rửa bát, thì tôi vẫn cứ theo công thức “một lần bằng nước rửa bát – một lần tráng”, bởi tôi luôn cảm thấy chỉ như vậy bát đĩa của mình mới sạch mỡ và khử triệt để mùi nước mắm. Các bạn hãy thử và cùng chia sẻ kinh nghiệm nhé! 2. WANDERN Một trong những sở thích chung của người Đức mà tôi luôn … “tránh xa” là “đi hành quân việt dã”, tiếng Đức gọi là “wandern”, kiểu như một hội đoàn hay tập thể bạn bè nào đó, có được ngày nghỉ thì họ liền rủ nhau … “tay bị tay gậy” … “trèo đèo lội suối” đi ngắm núi non sông hồ vậy đó!! Để thực hiện được sở thích này, người Đức không những dành rất nhiều thời gian “nghiên cứu” những đoạn đường mòn, chạy ngoằn ngoèo qua rừng qua núi, thậm chí họ còn đầu tư khá nhiều tiền để mua những bộ quần áo và giầy dép, khăn, mũ, túi … phù hợp nữa. Đặc biệt, ở Đức còn có Hội “Wanderverband” dành riêng cho những người cùng chung sở thích này (www.wanderverband.de). 3. CHỈ THÍCH ĐI DU LỊCH MỘT NƠI HOẶC THEO MỘT KIỂU Tôi quen và chơi với nhiều bạn Đức ở đủ mọi lứa tuổi và sinh sống nhiều nơi khác nhau, ngoài ra, qua các câu chuyện của hàng xóm láng giềng thì tôi có thể nói rằng, người Đức khá sợ thay đổi, nhất là khi họ rời khỏi nước Đức! Có những gia đình hàng mấy chục năm chỉ đi du lịch đến đúng 2 điểm: nghỉ đông thì đi Ostsee (Biển Đông) mà nghỉ hè thì sang Mallorca (Tây Ban Nha); có nhà thì thích tự đi kiểu camping và cứ đến hè là họ “khăn gói quả mướp” chạy xe hơn 11 tiếng (từ bang Sachsen) qua Áo rồi Ý để sang Kroatien (Croatia) cắm trại; người khác thì lại thích đi Thổ Nhĩ Kỳ và năm nào cứ vừa đi chơi về là họ lại đặt ngay chỗ đó cho năm sau luôn. Nếu có dịp đi du lịch quanh Châu Âu, các bạn sẽ thấy dân bản xứ ở rất nhiều điểm du lịch giỏi tiếng Đức như dân từng sống ở Đức vậy, thậm chí họ còn có thể “khoanh vùng” đâu là nơi người Đức thích và đến nhiều nhất nữa. Người Đức hay lựa chọn một nơi duy nhất để đi trong kỳ nghỉ có lẽ vì họ vừa lo sợ gặp phải những phiền phức và bất tiện, nên cứ thấy ở đâu hay, tốt, đẹp, rẻ … là không muốn thay đổi gì luôn. Hơn nữa, họ cũng không muốn trong kỳ nghỉ ngắn ngủi phải làm quen với quá nhiều thứ, kiểu mất thời gian quá hay sao ấy??!! Vì lặp đi lặp lại hàng năm như vậy nên nhiều người còn quen thân với hàng xóm láng giềng nơi họ đến nghỉ như họ hàng, thỉnh thoảng gửi quà, gửi thư cho nhau, quan tâm đến gia đình, con cái nhau … Tất nhiên, cũng là một cách sống khá hay, tuy nhiên, đối với tôi thì du lịch là khám phá, là những trải nghiệm trên đường đi, vì vậy mà có dịp đi nghỉ tôi thường chọn những nơi khác nhau để có thể học hỏi, để nhìn thấy nhiều cái mới cái lạ hơn, đơn giản vậy thôi! 4. ĂN HOA QUẢ CHÍN NHŨN Thói quen ăn hoa quả còn xanh, cứng, chua chua giòn giòn rồi chấm muối ớt của người Việt là một sở thích mà chắc vĩnh viễn tôi chẳng thể bỏ được!! Thế nhưng người Đức thì khác! Có hai loại quả họ thích ăn giòn và xanh là táo và … chuối – đúng vậy, đối với họ thì “chuối chín trứng cuốc” là chuối đã cũ rồi và người Đức nói rằng, ăn lúc đó sẽ cảm thấy chuối bị lên men, không còn độ ngọt nữa. Còn các loại hoa quả khác thì hầu như họ để cho chín mềm, thậm chí là nhũn nhũn mới thích ăn – khó thích nghi thật!!! 5. ĐI CHỢ CHO CẢ TUẦN Nhiều gia đình người Đức thường có thói quen đi chợ – khác hẳn người Việt – là một tuần chỉ đi chợ một, nhiều nhất là hai lần. Họ là những người thích lên kế hoạch, nhất là trong việc chi tiêu, mua sắm, vì thế họ thường đi chợ một lần trong tuần để có thể bao quát được mức chi của gia đình. Các bạn hiện đang sống ở Đức chắc chắn có thể quan sát thấy dân Đức đi chợ vào các thứ 6, thứ 7 hàng tuần như thế nào: Xe hàng chất cao và hầu như ai cũng lăm lăm một tờ danh sách!! Họ mua khá nhiều đồ đông lạnh, đồ hộp, nước uống và các sản phẩm từ sữa. Và tất nhiên, vì họ mua đồ ăn cho cả tuần như vậy nên người Đức rất rành cách bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh và dưới hầm, ví dụ những hộ gia đình thường có tủ đông lạnh to đặt riêng dưới hầm, hoa quả, rau dưa cũng được cất theo các ngăn hoặc khay dưới đó, thậm chí là có cả ngăn để các loại đồ hộp. Họ tuân thủ quy tắc bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh một cách rành rọt, có người mở đồ gì ra là ghi chú ngày tháng cẩn thận. Người Việt hay cho rằng đồ đông lạnh không tươi mới như khi ta mua trực tiếp ngoài hàng thịt, hàng rau, nhưng thực tế thì ngược lại, bởi những đồ đông lạnh của Đức thường được đóng đá theo phương pháp “Schockgefrieren” – nôm na là “đóng đá đột ngột”, nghĩa là chỉ trong vòng vài phút đã đạt mức -18°C. Phong cách sống này cộng thêm xu hướng mở những trung tâm buôn bán lớn tại các khu vực ngoại ô thành phố khiến vô số doanh nghiệp nhỏ và truyền thống trong nhiều thành phố bị phá sản, bởi người dân thích chạy xe đi shopping, kết hợp mua sắm ở những khu siêu thị to lớn như vậy luôn – nói chung là một thực trạng khá buồn và tôi rất hi vọng có nhiều người nhận thấy để cải thiện tốt hơn … Tác giả: Cẩm Chi Minh họa: Minh Lý
Những quả trứng được gà đẻ ra trong ngày này sẽ mang đến rất nhiều may mắn. Ostern (Lễ Phục Sinh) tại Đức là một lễ hội mùa xuân rất quan trọng, bắt nguồn từ thời cổ đại, khi con người còn tin có nhiều thần thánh. Đây là dịp người ta muốn thể hiện lòng thành kính bằng cách ca hát và nhảy múa, dâng lên nhiều hoa trái để tạ ơn và cầu bình an. Đặc biệt, đây chính là ngày kỷ niệm Chúa Jesus hồi sinh sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá. Từ đó, truyền thống Ostern lại chịu rất nhiều ảnh hưởng từ Thiên Chúa Giáo, đồng thời là một dịp lễ tạ ơn trời đất giao hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở, mang đến nhiều hi vọng và niềm vui đầu năm. Lễ Phục Sinh không cố định vào một ngày trong năm, mà thay đổi theo chu kỳ mặt trăng. Nó bắt đầu bằng ngày Gründonnerstag (năm nay là ngày 14.04.2022) – tiếng Việt là Thứ 5 Tuần Thánh – theo Kinh Thánh thì đây là ngày mà Chúa Jesus đã chia sẻ bữa ăn tối cuối cùng với các môn đồ. Cũng chính trong ngày hôm đó, Ngài đã bị phản bội và bị bắt giữ. Người theo đạo Thiên Chúa bắt đầu ngày Thứ 5 Tuần Thánh với 3 lễ kỷ niệm gồm sự cam chịu (Leiden), cái chết (Tod) và hồi sinh (Auferstehung) của Chúa Jesus – kéo dài 3 ngày. Từ “grün” ở đây thực chất không mang nghĩa “màu xanh”, mà nó bắt nguồn từ từ cổ “gronan” với nghĩa là “khóc” (weinen) – khóc thương cho con đường cứu rỗi của Chúa Jesus. Người ta tin rằng, những quả trứng được gà đẻ ra trong ngày này sẽ mang đến rất nhiều may mắn! Sau Gründonnerstag sẽ đến Karfreitag – ngày Thứ 6 Tuần Thánh hay còn gọi là “thứ 6 tĩnh mịch” – là ngày Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá. Đối với các tín đồ Thiên Chúa Giáo, đây là một ngày họ tưởng nhớ Đấng Cứu Độ . Nhiều nhà thờ không rung chuông vào ngày này, các buổi lễ sẽ không có nhạc đệm và các tín đồ sẽ không hát thánh ca. Qua ngày thứ 7 sẽ đến Ostersonntag – ngày Chủ nhật Phục Sinh – chính là thời điểm mà Kinh Thánh kể lại rằng, các bà đi lấy nước đã phát hiện ra chiếc quan tài trống rỗng của Chúa Jesus. Ngày ấy đã trở thành tâm điểm trong niềm tin bất diệt của các tín đồ. Họ tổ chức những lễ hội tạ ơn sự sống và Đấng Tối Cao (Gott) – mùa Phục Sinh bắt đầu vào ngày Chủ Nhật Phục Sinh, kéo dài 50 ngày cho đến lễ Hạ Trần (Pfingsten) vào tháng 5. Vào thứ 2 Phục Sinh – Ostermontag – người ta dường như đua nhau bắt đầu một cuộc sống mới. Phong tục tập quán dân gian Một tục tập quán đẹp trong Lễ Phục Sinh là đốt lửa vào đêm thứ 7 trước ngày Chủ Nhật Phục Sinh – tiếng Đức gọi là Osterfeuer. Ngọn lửa này biểu tượng cho sự hồi sinh của Chúa Jesus, cũng là ánh sáng Ngài mang đến thế gian này. Lễ Phục Sinh tại Đức từ lâu cũng giống như lễ Giáng Sinh, là một ngày lễ gia đình chứ không chỉ dành riêng cho các tín đồ Thiên Chúa Giáo, vì thế nhiều người không theo đạo Thiên Chúa cũng tham gia đốt lửa, trang trí nhà cửa và tổ chức trò chơi tìm trứng, tặng quà cho trẻ em. Vì sao có tập tục “Thỏ mang Trứng” (“Osterhase bringt Ostereier”)?Đầu năm cũng là mùa thỏ sinh con, giống hình ảnh quả trứng, tượng trưng một cuộc sống mới. Trứng Phục Sinh là truyền thống từ thế kỷ thứ 16. Trong thời kỳ tuyệt thực (Fastenzeit) trước lễ Phục Sinh, tín đồ Thiên Chúa không ăn trứng. Để bảo quản chúng, họ đã luộc trứng cùng với một số loại cây cỏ nhuộm màu nhằm phân biệt giữa trứng chín và trứng sống. Rồi thời gian trôi qua, con người dần phát hiện có thể nhuộm trứng bằng cả các thứ khác có sẵn trong thiên nhiên nữa. Theo phong tục thì các tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ bắt đầu nhuộm trứng vào ngày thứ 7, và vào hôm sau – vào Chủ Nhật Phục Sinh, họ sẽ xếp chúng trong giỏ mang đến cúng ở nhà thờ. Sau buổi lễ, người lớn đem giấu những quả trứng “lộc” đó để trẻ nhỏ đi tìm. Quả trứng màu đỏ sẽ mang thật nhiều may mắn, còn quả màu xanh da trời sẽ mang bất hạnh. Sau trò chơi tìm trứng, mọi nhà sẽ quây quần bên bàn để thưởng thức những món ăn truyền thống như thịt cừu, thịt thỏ hoặc gà nướng,… ăn kèm trứng luộc, khoai tây và các loại rau củ như đỗ, cà rốt, rau cải chua. Tác giả: Cẩm Chi
Vào vài ngày trước lễ Giao Thừa, người Đức (và người dân ở các nước sử dụng tiếng Đức như Áo, Thụy Sỹ) thường chúc nhau một câu là: – Wir wünschen euch einen guten Rutsch ins Neue Jahr!– Rutsch/Rutscht gut rein ins Neue Jahr!– Guten Rutsch! Đây là một câu chúc được phổ biến tại Đức từ khoảng năm 1900 đến nay. Tuy nhiên, động từ “rutschen” hay danh từ “Rutsch” nguyên bản lại không có nghĩa là “trượt” hay “lướt”, mà có hai cách giải thích cho xuất xứ của câu thành ngữ này. Một là có thể nó bắt nguồn từ từ Do Thái cổ “Rosch” với nghĩa “đầu tiên/sự khởi đầu” (tiếng Đức là Kopf hoặc Anfang) để chúc cho một khởi đầu may mắn. Mặt khác, nghĩa của nó có thể là “chuyến đi” (Reise/Fahrt) để chúc một chuyến đi vui vẻ bước sang Năm Mới. Vì vậy, từ năm 1820, người ta đã thường chúc nhau “guten (glücklichen) Rutsch“ (nghĩa là „gute Reise“), hầu như để ám chỉ một chuyến đi ngắn bằng xe trượt tuyết/xe trượt băng (có ngựa kéo), sau này thì ngụ ý nói về một chuyến đi bằng tàu hỏa. Dù thế nào thì khi nói đến từ “rutschen”, chắc chắn ai trong chúng ta cũng sẽ nghĩ ngay đến hành động trượt hoặc lướt một cách nhẹ nhàng, êm ái, (hi vọng) không gặp nhiều chướng ngại vật … – đặc biệt là vào giây phút chúng ta đón chào thời khắc chuyển giao giữa Năm Cũ và Năm Mới, phải không các bạn?? Một số cách chúc mừng năm mới trong tiếng Đức: 1. Alle Jahre wieder, Weihnachten und Silvester.Wir stehen da und überlegen uns, was werden wir im nächsten Jahr ändern.Vorsätze, Gedanken werden hin und her geschoben.Wenn wir aber ehrlich sind, kommen viele Vorsätze alle Jahre wieder.Dabei ist im Leben nur Gesundheit und Glück wichtig.Der Rest kommt, wann es kommen soll.Einen guten Rutsch ins neue Jahr! 2. Ich wünsche einen schönen Neustart.Beginnen soll es mit einem schönen Feuerwerk.Gesundheit und Liebe soll an Deiner Seite stehen,dazu von mir viel Glück! 3. Das alte Jahr ist jetzt bald futsch, drum wünschen wir einen guten Rutsch. Glück soll uns das neue Jahr gestalten und wir bleiben hoffentlich die alten! 4. Lasst die Korken knallen. Lasst die Sektgläser klingen. Lasst uns nun das neue Jahr beginnen. Bleibt fröhlich und gesund: 365 Tage, das sind 8760 Stund. 5. Für das Neue Jahr wünsche ich dir soviel Glück, wie der Regen Tropfen hat, soviel Liebe wie die Sonne Strahlen hat und soviel Gutes wie der Regenbogen Farben hat! 6. Ich bin die kleine Silvestermaus,steh leider nicht vor deinem Haus.Drum schick ich dir aus weiter Ferne,eine Hand voll Zaubersterne.Alles Gute im 2016! 7. Wenige Stunden sind es nur zum Neuen Jahr. Einen guten Rutsch, viel Erfolg und Gesundheit im 2016. Das wünsch ich dir/euch von Herzen! 8. Sonne, Mond und Sterne,alles ist weit in der Ferne.Doch was ich wünsche, das ist ganz nah,ein glückliches, gesundes Neues Jahr! 9. Was wädelt so spät durch Nacht und Wind?Es ist ein Schwein, das lacht und singt!Es wünscht dir – ist ja klar: Viel Glück und Liebe im Neuen Jahr! 10. Am Himmel leuchten die Sterne so klar,ich wünsch dir ein frohes Fest und ein gutes Neues Jahr!… Tác giả: Cẩm Chi
Những cơ hội đào tạo mở rộng kỹ năng tại Đức là vô cùng đa dạng. Những người quan tâm có rất nhiều sự lựa chọn, không chỉ ở chủ đề, mà còn ở những loại hình đào tạo khác nhau. Hiện nay, điều quan trọng hơn hết là những thông tin chi tiết để không gì có thể ngăn cản bạn khỏi những hoạt động cá nhân nhằm nâng cao kỹ năng. Ở bài viết sau đây, chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn những hình thức đào tạo mở rộng chuyên môn quan trọng nhất: Tự học Hình thức học tập này có những ưu và nhược điểm, vì người học sẽ tự quyết định thời gian, mức độ tập trung hay phương tiện nào sẽ giúp người học nắm được nội dung và đạt được những mục tiêu học tập mong muốn. Người học có thể học với một nhóm người, có thể tự đưa ra những tiêu chí để đánh giá hiệu suất công việc, hay có thể tự quyết định học với công cụ nào. Những công cụ đó có thể bao gồm các tài liệu giảng dạy thông thường cũng như học trực tuyến hoặc một sự giúp đỡ chuyên nghiệp, ví dụ như từ một giáo viên dạy riêng. Sự linh hoạt chính là yếu tố khiến việc tự học trở nên hấp dẫn hơn. Mặt khác, việc đó cũng ẩn chứa nguy cơ không theo đuổi mục tiêu một cách kiên định nếu không có áp lực từ bên thứ 3. Việc luôn luôn phải tự động viên bản thân rằng tất cả mục tiêu sẽ hoàn thành quả thực khó khăn, và việc này trở nên dễ dàng hơn khi làm việc trong cùng một nhóm, trong một khóa học, hay với nhiều người khác hơn là làm “đơn thương độc mã”. Những người thực sự lưu ý đến khía cạnh này và có thể đảm bảo luôn có khả năng tự động viên bản thân có thể thực hành việc tự học. Nếu bạn không chắc chắn mình có thể làm thế, hãy thử các hình thức học sau đây. Các khóa học/ hội thảo/ thuyết trình Có lẽ hình thức đào tạo mở rộng kỹ năng phổ biến nhất là phương pháp học truyền thống thông qua một buổi thuyết trình, hội thảo hay một khóa học. Việc rất nhiều cơ sở đào tạo tạo điều kiện cho những hình thức trên không nhất thiết sẽ khiến sự lựa chọn của chúng ta trở nên dễ dàng hơn. Tuy vậy, trên một phương diện khác, nó lại mở ra rất nhiều con đường giúp bạn đạt được mục tiêu. Bởi vậy những ai sẵn sàng học hỏi có thể tham gia các khóa học giáo dục dành cho người lớn, tham gia các khóa học từ các cơ sở đào tạo khác nhau, tham gia các hội thảo cuối tuần, nghe thuyết trình hoặc học tại một trường đại học. Hình thức học truyền thống là phương pháp tốt nhất đối với nhiều người để học một thứ gì đó, vì bạn học theo nhóm và có thể trao đổi, so sánh với những người cùng tham gia. E-Learning Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, các nhà cung cấp hình thức đào tạo phát triển chuyên môn đã liên tục mở ra rất nhiều lĩnh vực kinh doanh mới. Học trực tuyến (E-Learning) là một lĩnh vực tương đối non trẻ. E-learning có nghĩa là “việc học tập được hỗ trợ bởi thiết bị điện tử” (nghĩa đen: “học trực tuyến”). Người học được truyền tải nội dung bài giảng thông qua các phương tiện điện tử và/hoặc kỹ thuật số cho việc trình chiếu hoặc sắp xếp tài liệu hay cho việc hỗ trợ tương tác. E-learning có thể được sử dụng để hỗ trợ các phương pháp giảng dạy khác hoặc nó có thể được sử dụng một mình. Hình thức này rất được yêu thích bởi các bạn trẻ, vì nhiều người trong số họ sử dụng máy tính nhiều giờ mỗi ngày. Truyền thông đa phương tiện, tương tác và học tập với các phương tiện truyền thông hiện đại đang trên đà phát triển và chắc chắn sẽ đóng một vai trò lớn trong tương lai. Học từ xa Học từ xa được định nghĩa là ‘’Việc truyền đạt những kiến thức và kĩ năng, trong đó người dạy và người học hoàn toàn hoặc chủ yếu cách xa nhau về mặt không gian và giáo viên hay người giám sát sẽ theo dõi mức độ hiệu quả của việc học’’. Chủ yếu tách biệt về mặt không gian có nghĩa là chắc chắn sẽ có những nhà cung cấp dịch vụ giảng dạy từ xa nhưng vẫn cung cấp cả những khóa học trực tiếp. Thuận lợi cho người học chính là việc tự quản lý thời gian rảnh của bản thân. Các cơ sở giảng dạy từ xa cung cấp các tài liệu như bản in sách giáo khoa, tài liệu âm thanh hoặc video, tài liệu trên nền tảng máy tính hoặc web và các bài tập được gửi qua đường bưu điện. Người quan tâm có thể học nghề hay học văn hóa tại các trường học từ xa và cũng có thể đăng kí tham gia nhiều hoạt động cải thiện kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng chuyên sâu. Training on/near/off the job “Training on the job” có nghĩa là nhân viên tham gia các khóa đào tạo phát triển nghiệp vụ, chuyên môn tại nơi mà họ làm việc. Hình thức này rất linh hoạt về mặt thời gian và có thuận lợi là nhân viên được đào tạo ở nơi quen thuộc với họ. Khi “Training near the job”, các hoạt động đào tạo sẽ diễn ra tại công ty, nhưng không phải trực tiếp tại nơi làm việc. Ví dụ khóa đào tạo các kĩ năng như hùng biện sẽ được tổ chức tại phòng hội thảo của các doanh nghiệp lớn. Với “Training off the job”, nhân viên sẽ được học bên ngoài công ty, ví dụ như tại các phòng của những người cung cấp khóa học đào tạo mở rộng kĩ năng. Các chuyến đi mở rộng chuyên môn và học tiếng ở nước ngoài Các hình thức đào tạo kĩ năng ở nước ngoài rất được yêu thích. Thật vậy, người học có thể vừa học được những thứ hữu ích mà vừa có cảm giác dễ chịu và được lợi từ những ấn tượng về một đất nước hoàn toàn xa lạ ngoài việc đào tạo chuyên môn nghề nghiệp. Chuyển dịch: Huyền Yến Minh họa: Huyền Kiu Bài viết gốc với tiêu đề “Formen der Weiterbildung” được đăng trên https://www.weiterbildung-ratgeber.de/formen-der-weiterbildung/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Das Angebot auf dem deutschen Weiterbildungsmarkt ist enorm vielfältig. Nicht nur thematisch, sondern auch, was die unterschiedlichen Arten der Fortbildung betrifft, haben Interessenten eine enorm große Auswahl. Umso wichtiger sind jetzt eingehende Informationen, damit Sie auch nichts mehr von Ihrer individuellen Weiterbildungsmaßnahme abhält. Auf diesen Seiten stellen wir Ihnen die wichtigsten Formen von Weiterbildungsmaßnahmen vor: Selbst organisiertes Lernen Diese Form der Weiterbildung hat Vor- und Nachteile, da der Lernende selbst bestimmt, wann, wie intensiv und mit welchen Mitteln er seine Inhalte und Lernziele erreichen möchte. Er kann allein oder mit anderen gemeinsam lernen, er kann sich selbst Kriterien der Leistungsbeurteilung erarbeiten und er kann entscheiden, mit welchen Mitteln er lernt. Dazu können gängige Unterrichtsmaterialien ebenso gehören wie das E-Learning oder auch das Einschalten professioneller Hilfe, zum Beispiel durch einen privaten Lehrer. Es ist die Flexibilität, die das selbstorganisierte Lernen so attraktiv macht. Andererseits birgt es auch die Gefahr, dass man sein Lernziel ohne den Druck Dritter nicht konsequent genug verfolgt. Sich selbst immer wieder so zu motivieren, dass alle Vorhaben gelingen, ist schwierig und fällt in der Gruppe, in Kursen, mit anderen Lernenden leichter als als „Einzelkämpfer“. Wer diesen Aspekt berücksichtigt und sicher ist, sich selbst immer wieder allein motivieren zu können, kann das selbstorganisierte Lernen praktizieren. Wer da unsicher ist, sollte auf eine der folgenden Formen zurückgreifen. Kurse / Seminare / Vorträge Die vermutlich häufigste Form der Weiterbildung ist die klassische Lernmethode in einem Vortrag, Seminar oder einem Kurs. Dass zahlreiche Institute diese Möglichkeit anbieten, erleichtert die Auswahl nicht unbedingt, eröffnet aber andererseits unheimlich viel Wege, sein Ziel zu erreichen. So können Lernwillige Volkshochschulkurse belegen, Kurse bei alternativen Anbietern, Wochenend-Seminare besuchen, sich Vorträge anhören oder an der Universität studieren. Die klassische Form ist für viele Menschen die beste Methode, etwas zu lernen, weil man in der Gruppe lernt und sich mit anderen Teilnehmern austauschen und vergleichen kann. E-Learning Mit der Entwicklung neuer Kommunikationswege erschließen sich auch die Anbieter von Weiterbildungsmaßnahmen immer neue Geschäftsfelder. Ein relativ junges Gebiet ist das sogenannte E-Learning. E-Learning steht für „elektronisch unterstütztes Lernen“ (wörtlich: „elektronisches Lernen“). Mit Hilfe elektronischer und/oder digitaler Medien für die Präsentation und Distribution von Materialien und zur Unterstützung der Kommunikation werden den Lernenden Inhalte vermittelt. Das E-Learning kann flankierend zur Unterstützung anderer Lehrmethoden oder auch ausschließlich eingesetzt werden. Gerade bei jüngeren Menschen ist es beliebt, weil viele von ihnen den Computer eh täglich mehrere Stunden nutzen. Multimedialität, Interaktivität und Lernen mit modernen Kommunikationsmitteln sind auf dem Vormarsch und werden in Zukunft sicher eine noch größere Rolle spielen. Fernunterricht Fernunterricht wird definiert als „Vermittlung von Kenntnissen und Fähigkeiten, bei der der Lehrende und der Lernende ausschließlich oder überwiegend räumlich getrennt sind und der Lehrende oder sein Beauftragter den Lernerfolg überwachen.“ Überwiegend räumlich getrennt bedeutet, dass es durchaus auch Anbieter gibt, die per Fernunterricht lehren, bei denen es aber auch Präsenzseminare- oder Kurse gibt. Der Vorteil für die Lernenden ist die individuelle, freie Zeiteinteilung. Fernschulen bieten als Materialien gedruckte Lehrhefte, audio- oder videobasierte Einheiten, computer- oder web-basierte Einheiten und per Post übermittelte Aufgaben an. Interessenten können an Fernschulen unter anderem Berufsabschlüsse und Bildungsabschlüsse machen, sie können aber auch zahlreiche berufliche Qualifikationsmaßnahmen und Spezialisierungen belegen. Training on/near/off the job „Training on the job“ bedeutet, dass Arbeitnehmer am Arbeitsplatz in dem Unternehmen, in dem sie beschäftigt sind, eine Weiterbildungsmaßnahme absolvieren. Das kann zeitlich flexibel gestaltet werden und hat den Vorteil, dass der Arbeitnehmer sich an gewohnter Stelle für den Job fortbildet. Bei „Training near the job“ findet die Weiterbildungsmaßnahme zwar im Unternehmen statt, aber nicht direkt am Arbeitsplatz. So gibt es zum Beispiel Weiterbildungsmaßnahmen wie Rhetorik, die in größeren Unternehmen in einem Seminarraum in der Firma stattfinden. Beim „Training off the job“ lernen Arbeitnehmer außerhalb des Unternehmens, zum Beispiel in den Räumen eines Anbieters von Weiterbildungsmaßnahmen. Weiterbildung und Sprachreisen im AuslandSehr beliebt sind Weiterbildungsmaßnahmen im Ausland. Zu Recht, können die Lernenden doch dort oft das Nützliche mit dem Angenehmen verbinden und neben der beruflichen Fortbildung von den Eindrücken eines fremden Landes profitieren.
Phẫu thuật thẩm mỹ đôi khi là một quyết định khó khăn khi bạn muốn trải qua một sự can thiệp như vậy. Có một vài yếu tố mà bạn nên cân nhắc trước để có thể đưa ra quyết định cuối cùng. Đôi lúc bạn phải đối mặt với những hậu quả lâu dài xảy ra với ngoại hình của mình. Để giúp bạn dễ dàng hơn trong việc quyết định có nên thực hiện một cuộc phẫu thuật như vậy hay không, chúng tôi xin đưa ra một số lời khuyên nhằm giúp bạn cân nhắc tới những ưu điểm và nhược điểm của việc này. Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng phẫu thuật thẩm mỹ không giống với phẫu thuật tạo hình. Có những sự khác biệt rất rõ ràng mà bạn nên biết trước khi thực hiện chúng. Phẫu thuật thẩm mỹ chỉ chú trọng vào việc cải thiện vẻ ngoài của một người. Vì thế, cả quá trình này tập trung chủ yếu vào việc tạo ra một ngoại hình đẹp đẽ, ví dụ như sửa mũi, hút mỡ, tạo hình môi âm hộ hoặc một cuộc tiểu phẫu nâng mí mắt. Ngược lại, với phẫu thuật tạo hình, bác sĩ không chỉ đơn thuần là tập trung vào kết quả thẩm mỹ. Đó là việc chữa trị những dị tật bẩm sinh hoặc bệnh tật ví dụ như bỏng bàn tay, tái tạo ngực hoặc cải thiện những vết sẹo v.v… Phẫu thuật thẩm mỹ có những ưu điểm gì? Với phẫu thuật thẩm mỹ, bạn có thể cải thiện vẻ ngoài của mình. Đó là mục tiêu chủ yếu mà lĩnh vực này hướng đến. Khi bạn có mong muốn thực hiện một cuộc phẫu thuật thẩm mỹ có nghĩa là bạn muốn sửa đổi ngoại hình của mình. Tuy nhiên, bạn phải ý thức được rằng, ngoại hình của bạn sẽ thay đổi mãi mãi. Sức khỏe thể chất tốt lên Trong một số trường hợp, phẫu thuật thẩm mỹ cũng có khả năng cải thiện sức khỏe thể chất, ví dụ nếu bạn mắc các bệnh về đường hô hấp. Cũng có những bệnh nhân thông qua điều trị hút mỡ đã trở nên năng động hơn sau cuộc phẫu thuật. Các căn bệnh như tiểu đường, tim mạch hoặc huyết áp cao có thể được giảm thiểu. Tự tin hơn vào bản thân Thông qua việc cải thiện vẻ bề ngoài, lòng tự trọng của bạn cũng được củng cố. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ đời sống xã hội và cả sức khỏe tinh thần của bạn. Việc này có thể dễ dàng được nhận thấy trong toàn bộ các lĩnh vực trong cuộc sống ngay khi bạn cảm thấy tốt và tin tưởng bản thân mình. Những lợi ích về mặt tâm lý Khi ngoại hình của bạn được cải thiện, việc thiết lập các mối quan hệ cũng trở nên dễ dàng hơn nhờ vào việc cảm thấy tự tin hơn vào bản thân. Những người không hài lòng về vẻ ngoài của mình thường trải qua những bệnh lý như trầm cảm hoặc rối loạn lo âu. Tùy thuộc vào ca phẫu thuật thẩm mỹ mà những vấn đề tâm lý này có thể được xử lý theo chiều hướng tốt lên. Nhược điểm Tốn thời gian và chi phí Bạn chắc hẳn đã ý thức được rằng một cuộc phẫu thuật thẩm mỹ có thể rất đắt đỏ. Chính vì vậy, sự lựa chọn này không dành cho tất cả mọi người. Có những người đã phải vay nợ tín dụng để có thể chi trả cho một ca phẫu thuật thẩm mỹ. Điều này rất có khả năng sẽ mang đến cho họ những khoản nợ. Hội chứng nghiện phẫu thuật Một tác hại khác của phẫu thuật thẩm mỹ là nó tiềm tàng khả năng gây nghiện. Có những người đã thực sự trở nên phụ thuộc vào những cuộc phẫu thuật thẩm mỹ và luôn luôn muốn được tiếp tục phẫu thuật lại. Trong trường hợp tệ nhất, cơ bắp và da sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Những rủi ro tiềm ẩn và khả năng thất bại Bạn hãy lưu ý đến sự thật rằng các cuộc phẫu thuật thẩm mỹ có thể diễn ra không như ý muốn ngay cả khi có những tiến bộ kĩ thuật vượt trội. Trong ca phẫu thuật luôn có thể xảy ra các sai sót. Điều này có thể gây nên những tổn thương tinh thần lâu dài. Thậm chí, việc đó có thể dẫn đến tình trạng liệt cơ mặt. Chuyển dịch: Hương Giang Minh họa: Mimi Bài viết gốc với tiêu đề “Vorteile und Nachteile der kosmetischen Chirurgie” được đăng trên https://outofthebox-duesseldorf.de/vorteile-und-nachteile-der-kosmetischen-chirurgie/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Es kann manchmal schwierig sein, sich für die plastische Chirurgie zu entscheiden, wenn Sie sich einem solchen Eingriff unterziehen lassen wollen. Es gibt mehrere Faktoren, welche Sie berücksichtigen sollten, um eine endgültige Entscheidung treffen zu können. Manchmal müssen Sie nämlich mit dauerhaften Konsequenzen für Ihr körperliches Erscheinungsbild zurechtkommen. Damit Sie sich leichter entscheiden können, eine solche Operation durchzuführen, gibt es folgenden Ratgeber, der Ihnen mit Vor- und Nachteilen aufschlüsselt, woran Sie denken sollten. Übrigens ist die kosmetische Chirurgie nicht dasselbe, wie die plastische Chirurgie. Die Unterschiede sind nämlich sehr deutlich, was Sie im Vorhinein gleich klären sollten. Bei der kosmetischen Chirurgie geht es nämlich hauptsächlich nur darum, das Aussehen eines Menschen zu verbessern. Deshalb konzentrieren sich solche Verfahren hauptsächlich auf das ästhetische Erscheinungsbild, wie zum Beispiel bei einer Nasenkorrektur, Fettabsaugung, Schamlippenkorrektur oder einer Augenliedstraffung. Bei der plastischen Chirurgie hingegen konzentriert sich der Arzt nicht nur rein auf das ästhetische Ergebnis. Es werden Geburtsfehler oder Krankheiten, bzw. Verbrennungen behandelt, wie zum Beispiel Hände, Brustrekonstruktionen oder Narbenverbesserungen u.ä. Welche Vorteile hat die kosmetische Chirurgie? Mit der kosmetischen Chirurgie können Sie Ihr Aussehen verbessern. Darum geht es hauptsächlich in diesem Bereich. Wenn Sie sich einer Schönheitsoperation unterziehen wollen, bedeutet das, dass Sie Ihr Aussehen verändern möchten. Sie dürfen sich aber bewusst sein, dass Sie Ihr Aussehen für immer ändern. Die körperliche Gesundheit verbessern Die kosmetische Chirurgie kann in einigen Fällen auch Ihre körperliche Gesundheit verbessern, wenn Sie beispielsweise eine Atemwegserkrankung haben. Es gibt auch Patienten, die nach der Operation körperlich aktiver sind, wenn es sich um eine Fettabsaugung handelt. Probleme, wie zum Beispiel Diabetes, Herzerkrankungen oder ein erhöhter Blutdruck können sich verringern. Ein besseres Selbstvertrauen Durch Ihr verbessertes Erscheinungsbild stärken Sie auch Ihr Selbstwertgefühl. Das wiederum wirkt sich positiv auf Ihr gesamtes soziales Leben und auch auf Ihre geistige Gesundheit aus. Sobald Sie sicher sind und sich gut fühlen, macht sich das in allen Lebensbereichen bemerkbar. Psychologische Vorteile Wenn Sie Ihr Aussehen verbessern, fällt es Ihnen auch leichter, Kontakte zu knüpfen, denn Ihr Selbstwertgefühl steigert sich. Menschen, die mit Ihrem Aussehen unzufrieden sind, leiden oft unter Depressionen oder Angstzuständen. Diese psychischen Probleme lassen sich je nach Schönheitsoperation besser in den Griff bekommen. Nachteile Der zeitliche Aufwand und die Kosten Sicher ist Ihnen bewusst, dass eine Schönheitsoperation recht teuer sein kann. Deshalb ist diese Möglichkeit nicht für jeden eine Option. Es gibt auch Menschen, die einen Kredit aufnehmen, um sich eine Schönheitsoperation leisten zu können. Das kann aber zu Schulden führen. Suchtpotenzial Ein weiterer Nachteil der kosmetischen Chirurgie kann das Suchtpotenzial sein. Es gibt wirklich Personen, die von Schönheitsoperationen abhängig werden und sich immer wieder solchen Verfahren unterziehen. Im schlimmsten Fall werden Muskeln und die Haut auf Dauer geschädigt. Risiken und Fehler Bedenken Sie auch die Tatsache, dass eine Schönheitsoperation schief gehen kann, auch wenn der technische Fortschritt bereits recht weit ist. Während der Operation können immer wieder Fehler auftreten. Dabei werden zum Beispiel dauerhafte Nervenschäden verursacht. Es kann sogar zu einer Gesichtslähmung kommen.
Loại thuốc ngủ lý tưởng sẽ: Cải thiện đáng kể thời gian và chất lượng giấc ngủ Không làm thay đổi chu kì tự nhiên của giấc ngủ Chỉ có tác dụng vào ban đêm, không vào ban ngày Không có tác dụng phụ và không độc hại cho cơ thể Vẫn có tác dụng sau khi đã sử dụng trong thời gian dài Không gây nghiện Không gây vấn đề gì cho người dùng sau khi ngừng sử dụng Cho đến bây giờ vẫn chưa có loại thuốc ngủ nào lý tưởng đến như vậy và cũng có thể sẽ không bao giờ có. Tất cả các loại thuốc ngủ ngày nay đều có những ưu nhược điểm nhất định và cần được cân nhắc trong từng trường hợp. Ưu điểm Ưu điểm của biện pháp trị liệu bằng thuốc ngủ nằm ở việc giúp bệnh nhân giảm đau tức thì bằng cách cải thiện quá trình đi vào và chìm sâu trong giấc ngủ. Thông qua đó, bệnh rối loạn giấc ngủ mãn tính hay tình trạng rối loạn cấp tính sẽ được ngăn chặn. Trong trường hợp mất ngủ mãn tính, sự gia tăng các vấn đề sức khỏe (ví dụ như: tâm lý trầm cảm nghiêm trọng, suy nhược thần kinh thực vật) sẽ được ngăn ngừa qua việc cải thiện chất lượng giấc ngủ. Đồng thời, bệnh nhân có thể ngăn ngừa các nguyên nhân gây ra rối loạn giấc ngủ thông qua các kỹ thuật trị liệu khác. Nhược điểm / Tác dụng phụ Nhược điểm lớn nhất trong quá trình điều trị bệnh rối loạn giấc ngủ bằng thuốc ngủ là những loại thuốc này thường chỉ giúp đối phó với các triệu chứng (thông thường cũng chỉ là tạm thời), chứ không giải quyết tận gốc vấn đề. “Chúng chỉ đóng vai trò hỗ trợ, chứ không phải vai trò chữa bệnh”. Do đó, một quá trình điều trị cần phải là một liệu pháp tổng thể, có nghĩa là nó bao gồm cả những biện pháp không dùng thuốc. Các loại thuốc ngủ được sử dụng thường xuyên nhất (còn được gọi là benzodiazepine và loại thuốc mới không chứa benzodiazepine) gây ra những tác dụng phụ ở các mức độ khác nhau như: Nhược điểm của thuốc ngủ Thay đổi chu kỳ tự nhiên của giấc ngủ: Benzodiazepine gây ra việc suy giảm độ sâu giấc ngủ, phần nào đó là cả giấc ngủ REM (giai đoạn mà mắt người chuyển động nhanh trong khi đang nhắm). Với các loại dược phẩm mới không có chứa Benzodiazepine thì các tác dụng phụ này đã giảm đáng kể. Kéo dài quá nhiều ngày: Tùy thuộc vào thời gian tác dụng của thuốc, trong thời gian này, khả năng tập trung và hoạt động cũng như khả năng phản ứng (nguy cơ tai nạn!) có thể bị suy giảm. Thường thì sau một thời gian, bệnh nhân vẫn không cảm nhận được những ảnh hưởng này, mặc dù chúng vẫn tồn tại. Mất ngủ do tác dụng ngược của thuốc: Thuật ngữ tiếng Anh “rebound” có nghĩa là “phản ứng ngược lại”. Chứng mất ngủ do tác dụng ngược của thuốc (hay mất ngủ do ngưng thuốc) để chỉ việc mất ngủ/rối loạn giấc ngủ xảy ra một cách trầm trọng hơn do việc dừng thuốc đột ngột hoặc quá nhanh. Những thành phần mới không chứa Benzodiazepine có ít tác dụng phụ hơn. Việc rối loạn giấc ngủ khi ngưng thuốc xảy ra thường xuyên nhất khi sử dụng thuốc với liều lượng cao và thuốc có thời gian tác dụng ngắn. Hội chứng cai nghiện: Ngoài chứng mất ngủ do ngưng thuốc, việc ngưng thuốc ngủ đột ngột có thể dẫn đến một số triệu chứng khác, như lo lắng, run, gặp ác mộng, kích động và bồn chồn. Tăng khả năng “nhờn thuốc”: Nhiều loại thuốc ngủ sẽ mất tác dụng sau một thời gian. Với thuốc có chứa Benzodiazepine, tác dụng sẽ suy yếu sau 2-4 tuần. Hậu quả thường gặp là bạn sẽ phải tăng liều lượng sử dụng. Phụ thuộc/nghiện thuốc: Do khả năng “nhờn thuốc” tăng lên, một số bệnh nhân buộc phải tăng liều lượng thuốc cũng như xuất hiện những triệu chứng cai nghiện, bởi vậy có thể nói đây là sự phụ thuộc về mặt thể chất. Tuy nhiên, khả năng bị nghiện như vậy sẽ thấp hơn so với các loại thuốc bất hợp pháp hoặc các chất gây nghiện hợp pháp (rượu, nicotin). Nguy cơ bị nghiện tỉ lệ thuận với liều lượng sử dụng và thời gian điều trị. Ước tính nguy cơ bị nghiện rất thấp ở các loại thuốc mới không chứa Benzodiazepine. Ngoài ra, chúng ta cần phân biệt rõ việc phụ thuộc về thể chất với phụ thuộc về mặt tâm lý. Phụ thuộc về mặt tâm lý: Bất kì loại thuốc ngủ nào (ngay cả với những loại thuốc không có tác dụng) cũng đều ẩn chứa nguy cơ: Sau một khoảng thời gian nhất định thì người bệnh sẽ bị thuyết phục rằng, họ sẽ không ngủ được nếu không có thuốc và do đó, họ uống thuốc mỗi buổi tối như một thói quen. Nếu như không có thuốc (ví dụ như khi quên mang theo thuốc khi đi du lịch), bệnh nhân sẽ có suy nghĩ rằng: “Không có thuốc, tôi sẽ không tài nào ngủ được – thế này thì thức trắng cả đêm mất!”. Tác động tâm lý từ sự lo lắng này trong thực tế cũng là đủ để gây ảnh hưởng đến giấc ngủ. Giãn cơ: Benzodiazepine có tác dụng làm giãn cơ. Do đó, những bệnh nhân lớn tuổi có nguy cơ té ngã cao nếu họ phải thức dậy vào ban đêm, ví dụ như khi phải đi vệ sinh. Ức chế hô hấp: Benzodiazepin ảnh hưởng đến đường hô hấp. Đối với những bệnh nhân có sẵn bệnh nền đường hô hấp (ví dụ: hen suyễn), đặc biệt là đối với những người vừa bị rối loạn giấc ngủ, vừa mắc hội chứng “tắt thở khi ngủ”, tác dụng phụ này có thể gây ra những hậu quả khó lường. Phản ứng ngược: Một số bệnh nhân, đặc biệt là người già và trẻ em còn có thể bị phấn khích, bồn chồn, sợ hãi và hoảng sợ thay vì được trấn tĩnh Trí nhớ: Benzodiazepine có thể gây ra suy giảm trí nhớ tạm thời (quên những sự việc xảy ra vào ban đêm, suy giảm khả năng học những thứ mới). Điều này đặc biệt hay gặp đối với các loại thuốc có chứa Benzodiazepine với tác dụng ngắn hạn (ví dụ: Halcion). Trong một số trường hợp nhất định, người ta cũng ghi nhận các triệu chứng sợ hãi vào ban ngày là tác dụng phụ của những loại thuốc có tác dụng tức thì này. Tương tác thuốc: Tất cả các loại thuốc ngủ đều có tương tác với các loại thuốc khác. Đặc biệt, việc sử dụng thuốc cùng lúc với đồ uống có cồn có thể khiến cho các tác dụng phụ trở nên nghiêm trọng hơn và do đó, không nên xảy ra. Tổng kết: Tất cả các loại thuốc ngủ phổ biến đều mang lại rất nhiều những ảnh hưởng tiêu cực. Đặc biệt, những loại thuốc mới được phát triển (thuốc ngủ không chứa Benzodiazepine) được cho là tương đối an toàn, ít gây nghiện và ít tác dụng phụ. Có xảy ra tác dụng phụ hay không, tác dụng phụ xảy ra mạnh cỡ nào, tùy thuộc vào mỗi người. Vì thế, một liệu pháp điều trị bằng thuốc tốt luôn dựa trên những trao đổi giữa bác sĩ và bệnh nhân. Quan trọng là, bệnh nhân phải được giải thích về các ảnh hưởng của việc ngưng thuốc hoặc cắt giảm lượng thuốc. Nhiều bệnh nhân không nhận thức được những ảnh hưởng của việc ngưng thuốc nên sớm muộn gì cũng đã từng thử ngừng thuốc ngủ đột ngột sau một đêm. Điều này có thể dẫn đến rối loạn giấc ngủ khi ngưng thuốc, làm bệnh nhân tin vào việc sẽ không thể ngủ được nếu không có thuốc ngủ. Hậu quả sau đó là việc tăng liều lượng sử dụng và kéo dài thời gian sử dụng thuốc. Chuyển dịch: Huyền Yến Minh họa: Bích Diệu Link ảnh: https://www.medmix.at/schlafrestriktion-gegen-schlafstoerungen/?cn-reloaded=1&cn-reloaded=1 Bài viết gốc với tiêu đề “Vor und Nachteile der medikamentösen Therapie” được đăng trên https://schlafgestoert.de/site-65.html. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Das ideale Schlafmittel sollte: den Schlaf in seiner Dauer und Qualität deutlich verbessern das natürliche Schlafmuster nicht verändern nur in der Nacht, nicht aber am Tage wirken keine Nebenwirkungen haben und für den Körper ungiftig sein auch bei einer Langzeiteinnahme seine volle Wirkung behalten keine Abhängigkeit hervorrufen das Absetzen des Mittels sollte unproblematisch sein Ein solches ideales Schlafmittel gibt es bis heute nicht und wird es wahrscheinlich auch nie geben. Alle heute existierenden Schlafmittel weisen eine Reihe von Vor- und Nachteilen auf, die es im Einzelfall abzuwägen gilt. Vorteile: Der Vorteil einer Schlafmitteltherapie liegt in der unmittelbaren Entlastung des Patienten durch die Verbesserung der Ein- und Durchschlaffähigkeit. Damit kann bei akuten Schlafstörungen tw. einer Chronifizierung der Störung vorgebeugt werden. Bei chronischen Schlafstörungen wird durch die verbesserte Schlafqualität der Entwicklung von Folgeproblematiken (z.B. schwere depressive Verstimmungen, vegetative Erschöpfungszustände) vorgebeugt. Gleichzeitig wird der Patient in die Lage versetzt, die Ursachen der Schlafstörung durch andere Therapietechniken anzugehen. Nachteile/Nebenwirkungen: Der größte Nachteil bei der medikamentösen Therapie von Schlafstörungen mit Schlafmitteln liegt darin, dass diese Medikamente nur eine (häufig nur vorübergehenden) Beseitigung der Symptome, nicht aber der Ursachen bewirken. “Es sind Helfer, aber keine Heiler.” Die medikamentöse Therapie sollte daher immer in ein Gesamttherapiekonzept eingebunden sein, das auch andere Nicht-medikamentöse Maßnahmen umfasst. Die am häufigsten verwendeten Schlafmittel (die sog. Benzodiazepine und die neuen Nichtbenzodiazepine – siehe: Welche Schlafmittel gibt es) weisen in unterschiedlichem Maße folgende Nebenwirkungen auf: Nachteile von Schlafmitteln Veränderungen des natürlichen Schlafmusters: Benzodiazepine führen zu einer Verminderung des Tiefschlafes, tw. auch des REM-Schlafes. Bei den Neuen Nichtbenzodiazepinen sind diese Nebenwirkungen geringer ausgeprägt. Tagesüberhang: Je nach Wirkdauer des Medikamentes kann es auch noch am Tage zu einer Beeinträchtigung der Konzentrations- und Leistungsfähigkeit, sowie des Reaktionsvermögens (Unfallrisiko!) kommen. Häufig werden diese Effekte vom Patienten nach einiger Zeit nicht bewusst wahrgenommen, obwohl sie weiterhin vorhanden sind. Reboundinsomnie: Der englische Begriff “rebound” bedeutet soviel wie “Rückprall”. Mit der sog. Reboundinsomnie (auch: Absetzinsomnie) bezeichnet man die bei abruptem oder zu schnellem Absetzen eines Schlafmittels erneut und nicht selten verstärkt auftretende Schlafstörung/Schlaflosigkeit. Bei den Neuen Nichtbenzodiazepinen ist diese Nebenwirkung geringer ausgeprägt. Am stärksten treten Absetzschlafstörungen bei hoher Dosierung und bei Mitteln mit kurzer Wirkdauer auf. Entzugserscheinungen: Abruptes Absetzen eines Schlafmittels kann neben der Absetzinsomnie zu einer Reihe anderer Entzugssymptome führen wie Angstzustände, Zittern, Alpträume, Erregungs- und Unruhezustände. Toleranzentwicklung: Zahlreiche Schlafmittel verlieren nach einiger Zeit an Wirkung. Bei Benzodiazepinen ist nach 2-4 Wochen mit einer Wirkungsabschwächung zu rechnen. Eine Dosissteigerung ist dann häufig die Folge. Abhängigkeit/Sucht: Aufgrund der Toleranzentwicklung kann es bei einigen Patienten zur Dosissteigerung und entsprechender Entzugssymptomatik kommen, so dass man hier von einer physischen (körperlichen) Abhängigkeit spricht. Das Risiko einer solchen Abhängigkeit ist jedoch wesentlich geringer einzustufen als das Abhängigkeitsrisiko bei entsprechenden illegalen Drogen oder legalen Suchtmitteln (Alkohol, Nikotin). Das Risiko steigt mit zunehmender Dosierung und Therapiedauer. Besonders gering wird das Abhängigkeitsrisiko bei den Neuen Nichtbenzodiazepinen eingeschätzt. Von der körperlichen Abhängigkeit unterschieden werden muss die psychische Abhängigkeit. Psychische Abhängigkeit: Bei jeder Form der Schlafmitteleinnahme (selbst wenn es sich um ein unwirksames Schlafmittel handeln würde) besteht das Risiko, dass über kurz oder lang der Patient zu der Überzeugung gelangt, ohne Schlafmittel nicht mehr schlafen zu können, und daher gewohnheitsmäßig abends zur Tablette greift. Ohne Tablette (z.B. wenn man das Medikament auf einer Reise vergessen hat, einzupacken) entsteht dann der Gedanke: “Ohne mein Schlafmittel kann ich nicht schlafen – also werde ich wohl die ganze Nacht wachliegen”, die dadurch hervorgerufene Beunruhigung reicht dann in der Tat aus, den Schlaf zu vertreiben (siehe auch: Teufelskreislauf der Schlaflosigkeit). Muskelrelaxation: Benzodiazepine habe eine muskelentspannende Wirkung. Bei älteren Patienten besteht daher eine erhöhte Sturzgefahr, wenn sie in der Nacht aufstehen müssen, um z.B. zur Toilette zu gehen. Atemsuppression (“Atemunterdrückung”): Benzodiazepine beeinträchtigen die Atmung. Bei vorbelasteten Patienten (z.B. Asthma) – insbesondere bei solchen, bei denen neben der Schlafstörung auch eine “Schlafapnoe” vorliegt – kann sich dieser Effekt verhängnisvoll auswirken. Paradoxe Reaktionen: Bei einigen Patienten, insbesondere älteren Menschen und Kindern, kann es statt der beruhigenden Wirkung zu einer gegenteiligen Reaktion mit Erregung, Unruhe, Angst und Panik kommen. Gedächtnis: Benzodiazepine können zu vorübergehenden Beeinträchtigungen des Gedächtnisses führen (Vergessen von Vorkommnissen in der Nacht, Beeinträchtigungen beim Lernen neuer Gedächtnisinhalte). Dies gilt besonders für die kurz wirksamen Benzodiazepine (z.B. Halcion). Bei diesen sehr schnell wirkenden Medikamenten wurden auch tw. Angstsymptome am Tage als Nebenwirkung berichtet. Wechselwirkungen: Alle Schlafmittel weisen Wechselwirkungen mit anderen Medikamenten auf. Insbesondere die gleichzeitige Einnahme von Alkohol kann Wirkungen und Nebenwirkungen erheblich verstärken und sollte daher unterbleiben. Fazit: Alle bekannten Schlafmittel weisen eine Vielzahl nachteiliger Wirkungen auf. Insbesondere die Neuentwicklungen (Neue Nichtbenzodiazepinhypnotika) gelten als relativ sichere Schlafmittel mit geringerem Abhängigkeitspotential und weniger Nebenwirkungen. Ob und wie stark es zu den entsprechenden Nebenwirkungen kommt, ist individuell sehr unterschiedlich. Eine gute medikamentöse Therapie beruht von daher auch immer auf einem guten Verhältnis zwischen Arzt und Patient. Wichtig ist hierbei vor allem die Aufklärung des Patienten über mögliche Absetzeffekte bzw. über das korrekte Ausschleichen von Schlafmitteln. Viele Patienten, die um diese Absetzeffekte nicht wissen, versuchen über kurz oder lang das Schlafmittel abrupt von heute auf morgen wegzulassen. Als Folge kann es zu massiven Absetzschlafstörungen kommen, die den Patienten in seiner Überzeugung verstärken, er könne ohne Schlafmittel nicht schlafen. Dosissteigerungen und eine Langzeitmedikamenteneinnahme sind dann oft die Folge.
Tiếng Đức có 6 Modalverben gồm: dürfen, können, mögen, müssen, sollen, wollen Modalverben trong tiếng Việt gọi là động từ tình thái hoặc động từ khuyết thiếu. Chúng là những động từ có chức năng biến đổi nghĩa của các động từ nguyên thể (Vollverb) đi kèm trong câu. Ví dụ: Ich fahre übers Wochenende nach Berlin – Cuối tuần này tôi đi Berlin – nghĩa là tôi sẽ không ở nhà vào những ngày đó. Nếu dùng Modalverben thì câu có thể biến đổi như sau: Ich MÖCHTE übers Wochenende nach Berlin fahren – Tôi muốn đi Berlin vào cuối tuần tới – nghĩa là tôi mới có ý định và mong muốn như vậy, nếu có tiền & thời gian, tôi sẽ đi, nếu không thì thôi. Ich MUSS nach Berlin fahren – Tôi phải đi Berlin một chuyến – nghĩa là tôi có cuộc hẹn phải đi Berlin, không thể trì hoãn. Modalverben được chia theo chủ ngữ của câu, còn động từ nguyên thể đi kèm sẽ được đặt ở cuối câu. Thậm chí chúng còn có thể thay thế luôn cả các động từ nguyên thể này. Ví dụ: Sie muss jetzt zur Schule (gehen) – Cô ấy phải đến trường bây giờ. Mein Sohn möchte in die Stadt (fahren) – Con trai tôi muốn đi vào thành phố. Du kannst aber schon sehr gut Deutsch (sprechen/verstehen) – Bạn đã có thể hiểu/nói tiếng Đức rất tốt. Er mag kein Bier (trinken) – Ông ấy không thích uống bia. Ich muss mal (aufs Klo gehen) – Tôi xin phép (đi toilet). Die Erzieher streiken, weil sie mehr Lohn (haben) wollen. – Các thầy cô mẫu giáo đình công vì muốn tăng lương. Chúng được chia và sử dụng trong những tình huống dưới đây: 1. “müssen” = bắt buộc phải Personalpronomen Präsens Präteritum ich muss musste du musst musstest er/sie/es muss musste wir müssen mussten ihr müsst musstet sie/Sie müssen mussten a. Khi BẮT BUỘC và CẦN THIẾT phải làm việc gì, KHÔNG THỂ THAY ĐỔI, ví dụ: Ich muss um halb 8 in der Schule sein – Tôi phải ở trường lúc 7 rưỡi. Wir müssen nächste Woche einen Deutsch-Test schreiben – Tuần sau chúng tôi phải viết bài kiểm tra tiếng Đức. b. Cũng có khi dùng để nói về một PHỎNG ĐOÁN hoặc NGHI NGỜ mà mình ĐÃ “NẮM CHẮC”, ví dụ: Die neue Lehrerin muss krank gewesen sein – Cô giáo mới chắc chắn phải bị ốm (rồi). Das müsste richtig sein – Cái này/Đáp án này chắc đúng rồi. c. Khi YÊU CẦU ai phải làm việc gì (với ý bắt buộc theo cách nhìn khách quan, thường đi với động từ nguyên thể và chia trong Präsens), ví dụ: Ihr müsst den Aufsatz zu Hause schreiben – Các em phải viết bài văn này ở nhà. Sie müssen zur Wahl (gehen) – Ông/bà (chắc chắn) phải đi bầu cử (nhé)! d. Khi đưa ra một KẾT LUẬN: Viele Menschen haben kein Geld. Deshalb müssen sie jeden Tag arbeiten gehen. – Nhiều người không có tiền. Vì thế hàng ngày họ đều phải đi làm. Meine Mutter sagte immer: “Wer schön sein will, muss leiden.” – Mẹ tôi hay nói: “Ai muốn đẹp, phải chịu đau đớn.” 2. “sollen” = cần, nên Personalpronomen Präsens Präteritum ich soll sollte du sollst solltest er/sie/es soll sollte wir sollen sollten ihr sollt solltet sie/Sie sollen sollten a. Khi nói về một TRÁCH NHIỆM, một NHIỆM VỤ, một sự ẤN ĐỊNH hoặc một LUẬT ĐỊNH, ví dụ: Ihr sollt jetzt die Übung machen – Các em nên/cần làm bài tập ngay bây giờ. Du sollst nicht töten – Không được sát sinh (một trong những cấm kỵ của các đạo giáo). Man soll immer die Wahrheit sagen – Chúng ta chỉ nên nói sự thật. b. Khi nói về một GIẢ THIẾT CHƯA ĐƯỢC XÁC THỰC, một TIN ĐỒN, ví dụ: Anna soll krank gewesen sein (das hat mir Ben gesagt) – Anna có lẽ đã bị ốm (Ben nói với tôi điều đó). Die Sängerin soll ziemlich arrogant sein (das habe ich in der Zeitschrift gelesen) – Cô ca sĩ đó có vẻ rất tự cao (tôi đọc được trong báo như vậy). – Man sagt, die Firma ABC soll Pleite sein (doch ich weiß es nicht genau) – Người ta bảo công ty ABC đã phá sản rồi (nhưng tôi không biết có đúng vậy không). c. Chia sẻ LỜI KHUYÊN, Ý KIẾN CÁ NHÂN: Man sollte mehr Fisch essen – Chúng ta nên/cần ăn nhiều cá hơn. Ich finde, du solltest dir eine neue Hose kaufen – Tôi nghĩ là bạn nên mua cái quần mới đi! d. Khi mở đầu một ĐIỀU KIỆN mà không cần từ đặt điều kiện (ví dụ từ nối “wenn – dann”): Sollte ich zu spät kommen, fangt schon mal ohne mich an – Tôi mà đến quá muộn thì cứ bắt đầu trước nhé, đừng đợi tôi. Sollte es schlechtes Wetter geben, bleiben wir eben zu Hause – Thời tiết mà xấu quá thì chúng tôi ở nhà vậy. – Chú ý: Giữa “müssen” và “sollen” có thể phân biệt ở chỗ: “sollen” không nói về sự bắt buộc/cần thiết riêng của từng cá nhân, mà chỉ dùng khi muốn nói về việc mình nên/cần làm theo ý kiến của người khác, ví dụ 2 câu sau sẽ được hiểu theo 2 hướng: Ich muss etwas essen – Tôi phải ăn gì mới được (vì tôi tự cảm thấy đói). Ich soll etwas essen – Tôi nên/cần ăn gì đó (mặc dù tôi không đói, không muốn ăn nhưng bác sỹ bảo tôi phải làm vậy). 3. “dürfen” = được phép (làm gì đó) Personalpronomen Präsens Präteritum ich darf durfte du darfst durftest er/sie/es darf durfte wir dürfen durften ihr dürft durftet sie/Sie dürfen durften a. Dùng khi CHO PHÉP ai làm việc gì, ví dụ: Du darfst mir den Kaffee bezahlen – Anh được trả tiền cà phê của tôi! Du darfst dir noch ein Paar Schuhe kaufen – Con được mua thêm một đôi giầy nữa. Khi muốn XIN PHÉP ai làm việc gì thì ta chuyển thành câu hỏi – và lịch sự hơn thì dùng Konjunktiv 2: Darf/Dürfte ich morgen zu Tom gehen? – Ngày mai con có thể đến nhà Tom không? Darf/Dürfte ich noch ein Stück Kuchen haben? – Tôi có được/có thể lấy thêm miếng bánh nữa không?? b. Để TỪ CHỐI hoặc CẤM ĐOÁN điều gì: Während des Testes dürft ihr nicht abschreiben – Khi làm bài kiểm tra, các em không được quay cóp. Im Museum darf man nicht fotografieren – Không được chụp ảnh trong viện bảo tàng. Das Kind darf heute nicht länger aufbleiben – Đứa bé hôm nay không được thức khuya hơn (lâu hơn so với mọi ngày). c. Khi nói về một GIẢ THIẾT: Die Operation dürfte sehr schwierig sein – Ca phẫu thuật sẽ khó khăn lắm đây! Der Baum dürfte um die 50 Meter hoch sein – Cái cây này chắc phải cao tới 50 mét. 4. “mögen” = ưa thích / mong muốn / có lẽ là … Personalpronomen Präsens Präteritum ich mag mochte du magst mochtest er/sie/es mag mochte wir mögen mochten ihr mögt mochtet sie/Sie mögen mochten Konjunktiv 2 “möchten” – có thể dùng như thời Präsens với nghĩa để “khẳng định một câu nói”: ich möchte – wir möchten du möchtest – ihr möchtet er möchte – sie möchten a. Khi nói về một MONG MUỐN, SỞ THÍCH: Ich mag keine Schokolade – Tôi không thích sô-cô-la. Ich möchte ein Bier – Tôi muốn uống cốc bia. Ta thường dùng “mögen” khi nói chung chung về một ý thích lâu dài hoặc để phủ định một sở thích nào đó. Còn “möchten” thì dùng cho trường hợp “ngay và luôn”!! b. Cũng dùng khi nói về một GIẢ THIẾT, một NGHI NGỜ: Sara ist krank? Das mag stimmen. – Sara bị ốm ư? Điều đó chắc đúng rồi. Seine Freundin mochte 25 Jahre alt sein – Bạn gái của anh ta chắc khoảng 25 tuổi. c. Khi đặt câu hỏi kiểu CẢM THÁN: Wo mag meine Brille nur sein? – Không hiểu kính của mình đi đằng nào rồi??!! 5. “wollen” = muốn (phải có hoặc làm bằng được cái gì) Personalpronomen Präsens Präteritum ich will wollte du willst wolltest er/sie/es will wollte wir wollen wollten ihr wollt wolltet sie/Sie wollen wollten a. Khi nói đến MONG MUỐN, Ý ĐỊNH: Ich will morgen mit meinem Chef sprechen – Ngày mai tôi muốn nói chuyện với sếp. Wir wollen nächstes Jahr in Italien Urlaub machen – Chúng tôi muốn đi nghỉ tại Ý vào năm tới. b. Khi TỪ CHỐI không muốn làm việc gì: Georg will nicht in die Schule gehen – Georg không muốn đi học. Er wollte mir nicht helfen – Anh ta không muốn giúp tôi. – Chú ý: Dùng “wollen” trong câu thường mang đến cảm giác đòi hỏi một cách thái quá, đặt “cái tôi” lên quá cao, vì thế để nói lên mong muốn của mình một cách lịch sự và lễ phép hơn, ta nên dùng “möchten”, ví dụ con cái không nên nói với bố mẹ là: Ich will ein Eis. Mà phải nói: Mama, ich möchte (gern) ein Eis. 6. “können” = có thể (có khả năng làm gì) / có thể, có lẽ Personalpronomen Präsens Präteritum ich kann konnte du kannst konntest er/sie/es kann konnte wir können konnten ihr könnt konntet sie/Sie können konnten a. Khi nói về một KHẢ NĂNG hoặc TÌNH HUỐNG có thể xảy ra, gồm các trường hợp: * KHẢ NĂNG về thể lực, tư duy, năng khiếu hoặc bẩm sinh: Sie kann Klavier spielen – Cô bé ý biết chơi đàn piano. Ronaldo kann sehr gut Fußball spielen – Ronaldo đá bóng rất giỏi. Können Sie Auto fahren? – Ông/bà có lái được ôtô không? * Tình huống có thể xảy ra: Wenn du magst, können wir uns nächste Woche wieder treffen – Nếu thích, tuần sau chúng ta lại có thể gặp nhau. Wenn du willst, kannst du im Juli mit uns nach Paris – Nếu muốn, tháng 7 này anh có thể đi cùng chúng tôi sang Paris. Morgen kann es regnen – Ngày mai trời có thể mưa. b. CHO PHÉP ai làm việc gì: Mama, darf ich draußen spielen gehen? (Mẹ ơi con ra ngoài chơi được không ạ? Ja, du kannst, aber zieh dir eine Jacke an. (Được nhưng hãy mặc thêm cái áo khoác vào con nhé!) c. GIẢ THIẾT, DỰ ĐOÁN: Heute könnte es Regen geben – hôm nay có thể có mưa. Wo ist Papa? (Bố ở đâu?) Er könnte entweder im Garten oder in der Garage sein. (Bố có thể/có lẽ ở trong vườn hoặc trong nhà để xe) CÁCH CHIA MODALVERBEN TRONG THÌ PERFEKT 1. Công thức để chia Modalverben trong thì Perfekt rất đơn giản: haben (chia theo các ngôi) + gedurft / gekonnt / gemocht / gemusst / gewollt Ví dụ: Das hast du nicht gedurft. Alle Schüler haben die Rechenaufgaben gekonnt. Herrn Mike haben die Schüler nicht gemocht. Klaus hat in jeder Pause auf die Toilette gemusst. Das habe ich nicht gewollt. sollen không có thì Perfekt 2. Chia Modalverben kèm với một động từ nguyên thể nữa sang Perfekt thì sẽ theo công thức sau: haben (chia theo các ngôi) + Infinitiv Vollverb + Infinitiv Modalverb Ví dụ: Das hast du nicht machen dürfen. Alle Schüler haben die Rechenaufgaben lösen können. Viele Schüler haben nicht zur Schule gehen mögen. Klaus hat auch schmutzige Arbeiten machen müssen. Wir haben das Zimmer aufräumen sollen. Das habe ich nicht machen wollen. Tác giả: Cẩm Chi