Một cuộc thảo luận về cách trở thành một giáo viên tốt ư? Khái niệm này nghe có vẻ khá đặc thù và có lẽ là cũng không liên quan lắm đến hầu hết chúng ta. Rất ít người trong chúng ta muốn trở thành một giáo viên, người hướng dẫn trẻ em trong một số môn học nhất định hoặc một vài lĩnh vực khác. Đó là những gì chúng ta liên tưởng tới khi nghe tới hai chữ “giáo viên”, người thường sẽ mặc một chiếc áo khoác đã cũ, kiểu người dễ làm chúng ta cảm thấy nhàm chán bởi sự cứng nhắc trong những năm tháng đầu đời. Tuy vậy, giảng dạy không phải là thứ mà chúng ta chỉ cần phải học nếu chúng ta lên kế hoạch sẽ theo đuổi sự nghiệp giáo dục. Nói đúng hơn, việc giảng dạy – theo cách định nghĩa của chúng tôi, một “business” vĩ đại của việc truyền tải một ý tưởng quan trọng từ tâm trí người này sang tâm trí người khác – là một trong những kỹ năng sống quan trọng nhất mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng cần phải có. Mỗi người trong chúng ta, dù làm nghề gì, đều cần trở thành một giáo viên tốt, vì cuộc sống của chúng ta luôn đòi hỏi chúng ta truyền tải những thông tin quan trọng một cách khéo léo và hiệu quả vào nơi sâu nhất trong tâm trí của người khác. Chúng ta có thể thừa nhận – một cách khá thẳng thắn – rằng hầu hết chúng ta có lẽ đã bắt đầu từ một giáo viên khá tồi. Điều này không có gì đáng xấu hổ, bởi giống như hầu hết mọi thứ, việc giảng dạy có thể học được và cũng nhất thiết nên được học. Vậy thì một số điều kiện tiên quyết để trở thành một giáo viên tốt là gì? Chúng ta cùng tham khảo danh sách sau đây: 1. Giáo viên tốt không bao giờ đổ lỗi cho người khác đã không biết trước điều gì đó Điều này nghe có vẻ nghịch lý – ngay thời điểm nó được chỉ ra. Nhưng sự thật là chúng ta thường rất khó chịu vì một người khác chưa biết điều gì đó – ngay cả khi chúng ta thậm chí chưa bao giờ thực sự nói cho họ biết điều đó là gì. Một vài điều có thể rất quan trọng với chúng ta và chúng ta đơn giản là không thể tưởng tượng rằng có người lại không biết chúng. Khi đó, ta thậm chí nghi ngờ rằng, những người này chắc hẳn đang cố tình chọc tức chúng ta bằng việc giả vờ như không biết điều mà họ biết. Thái độ này ảnh hưởng tiêu cực và khiến cho những kiến thức chúng ta thực sự phải dạy chưa chắc sẽ đến với tâm trí của người học một cách thành công. Việc dạy tốt bắt đầu với ý niệm: sự thiếu hiểu biết không phải là khiếm khuyết của một cá nhân mà ta đang hướng dẫn; nó là hậu quả của việc anh ta chưa bao giờ được dạy đúng cách. Vì vậy, đúng ra, người duy nhất có lỗi ở đây lại chính là người đã truyền đạt chưa đủ tốt – hay nói cách khác, chính là người giáo viên. 2. Giáo viên tốt không tức giận Chúng ta càng cần người khác hiểu điều gì đó, chúng ta càng khó đảm bảo mức độ bình tĩnh của bản thân, điều không thể thiếu nếu chúng ta muốn truyền đạt điều đó cho họ một cách hiệu quả. Khả năng họ có thể không nhanh chóng hiểu được điều mà chúng ta cho rằng đặc biệt quan trọng dễ khiến chúng ta rơi vào trạng thái kích động hay tệ hơn là tức giận, và đây là trạng thái tệ nhất để có thể truyền tải bất cứ bài học nào. Vào thời điểm chúng ta bắt đầu nói ra những ngôn từ không hay với học trò, gọi họ là “đầu đất” hay “ngu ngốc”, bài giảng rõ ràng đã kết thúc ngay tại đó. Tôi chưa từng quen ai học được bất cứ điều gì trong tình trạng đang bị xúc phạm như vậy. Nghịch lý thay, những giáo viên tốt nhất lại là những người sẵn sàng chấp nhận khả năng những gì họ dạy sẽ không được học sinh tiếp thu. Chính cách tiếp cận hơi bi quan này là cơ hội tốt nhất để tạo ra sự thoải mái cần thiết cho tâm trí, hướng tới việc giảng dạy thành công. 3. Giáo viên tốt sẵn sàng thừa nhận những điều họ không biết Thật xấu hổ cho một người giáo viên khi ở vào tình trạng buộc phải học thứ gì đó mới. Ai đó khác trong lớp học biết một điều mà bạn không biết. Điều đó có thể rất khó chịu, người học có thể sẽ bịt tai lại và tỏ thái độ chán ghét những đặc quyền của người đang trong vai trò giảng dạy. Đó là lý do tại sao một kỹ năng cơ bản khác của một giáo viên tốt là thừa nhận rằng họ, trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống, không biết hay thậm chí là kém cỏi. Điều này dường như có thể làm suy yếu uy lực của họ trong lớp học. Nhưng thật ra, hoàn toàn trái ngược lại, nó tạo ra một bầu không khí thiện chí và khiêm tốn, khiến người học cảm thấy thoải mái hơn. Họ có thể chưa hiểu rõ một vấn đề nhất định mà giáo viên của họ đang truyền tải nhưng nhìn chung, họ biết rằng mình không phải là một bản thể thua kém giáo viên – và vì vậy, họ dám đối mặt với sự thiếu hiểu biết của mình trong một lĩnh vực nhất định và tuân theo kỷ luật trong việc khắc phục những thiếu sót đó một cách tốt nhất. 4. Giáo viên tốt biết cách chọn thời điểm Khi là một giáo viên tồi, chúng ta có xu hướng tự động cố gắng dạy về một vấn đề ngay khi tranh cãi xuất hiện, thay vì chọn một thời điểm mà có nhiều khả năng người học sẽ tham gia được tốt hơn. Khi xung đột xảy ra, đây không phải là thời điểm tốt nhất cho một bài học. Chẳng hạn, chúng ta có thể phải đợi một thời gian, như là 3 ngày sau cuộc tranh cãi, chỉ để chọn được một cơ hội phù hợp để đối phó với vấn đề tiềm ẩn phía sau. Khi bạn đời của chúng ta đang xếp bát vào máy rửa và ngâm nga một bài hát, đó là thời điểm tốt nhất để nhắc lại một cách vui vẻ và hồn nhiên điều gì đó đã khiến chúng ta thực sự phát điên một thời gian trước và ở thời điểm đó, chúng ta đáng tiếc lại giữ im lặng. Như chúng ta đang bắt đầu thấy, chúng ta càng cảm thấy tuyệt vọng bên trong, chúng ta càng có ít cơ hội để thuyết phục được người khác một cách hiệu quả. Thật không may, chúng ta thường kết thúc những bài giảng phức tạp và khó truyền đạt nhất vào thời điểm chúng ta cảm thấy mệt mỏi và áp lực nhất. Chúng ta phải đối mặt với nỗi sợ hãi rằng, nếu chúng ta không bắt đầu giải quyết vấn đề này ngay bây giờ, một vấn đề khác sẽ xảy ra ngay sau đó và cứ thế các vấn đề sẽ liên tục xuất hiện và mãi mãi không thể kiểm soát. Thật ra là không phải vậy. Chúng ta nên tự tin hơn rằng, việc không ngay lập tức nhảy thẳng vào vấn đề, trên thực tế, sẽ cho phép ta khắc phục nó đúng cách hơn một chút ở một thời điểm phù hợp. 5. Giáo viên tốt cũng là học sinh tốt Giáo viên tốt biết rằng tất cả mọi người đều có rất nhiều thứ cần phải học và ai cũng đều có những kiến thức hữu ích để truyền đạt lại cho người khác. Chúng ta đừng bao giờ nổi giận nếu ai đó đang cố gắng giảng giải cho chúng ta điều gì đó và phản bác lại bằng những câu kiểu như: “Tôi muốn bạn chấp nhận tôi đúng như những gì tôi đang có!”. Chỉ có một sinh vật hoàn hảo không tì vết mới không muốn thay đổi điều gì từ bản thân (và sinh vật đó thì, đương nhiên, không tồn tại!). Đối với tất cả chúng ta, học tập và giảng dạy là cách duy nhất để ta có thể tiếp tục tiến bộ và đó là lý do tại sao chúng ta nên chào đón chúng như những món quà thực sự. Bài viết của tác giả Alain de Botton, một nhà triết học và một tác giả nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Sách của ông thường mang tính thảo luận về nhiều chủ đề đương đại khác nhau, nhấn mạnh sự liên quan của triết học với cuộc sống hàng ngày. Bài viết gốc: How to be a good teacher Tác giả: Kobe
Kobe
Việc học ngôn ngữ, về cơ bản, chính là học cách giao tiếp: tiếp nhận thông tin qua âm thanh (Hörverstehen) và qua chữ viết (Leseverstehen) đồng thời truyền tải thông tin qua giọng nói (mündlicher Ausdruck) và qua chữ viết (schriftlicher Ausdruck). Trong khi 2 kỹ năng mang tính bị động ở trên có thể được cải thiện nhanh chóng thông qua mở rộng vốn từ và tăng thời lượng tiếp xúc ngôn ngữ thì để thực hành 2 kỹ năng mang tính chủ động được hiệu quả, ta cần cải thiện nền tư duy lập luận trước tiên. Yếu tố chính quyết định một bài thuyết trình hay bài luận bằng tiếng Đức có thành công hay không, xét cho cùng, chính là cách sắp xếp và xử lý các ý tưởng, quan điểm và kiến thức của người học. Người có tư duy lập luận tốt sẽ dễ dàng đưa ra chứng minh cho một nhận định, dễ dàng khiến cho quan điểm của mình trở nên thuyết phục và cũng dễ dàng chiếm được cảm tình của người khác đối các ý tưởng mới mà họ đưa ra. Trong bài viết này, mình muốn giới thiệu với các bạn về hiểu biết của cá nhân mình ở lĩnh vực này cũng như giá trị thực tiễn của nó trong việc học 2 kỹ năng nói và viết của tiếng Đức. 1. Thế nào là lập luận? Trong cuộc sống, việc những người khác nhau có quan điểm, cách lý giải khác nhau về một vấn đề là một việc rất hay gặp. Đó có thể là khi đứa con muốn đi chơi còn cha mẹ thì muốn con học bài, có thể là khi mình là fan MU còn bạn là fan Liverpool hay cũng có thể là khi bạn muốn thuyết phục giám khảo của một kỳ thi rằng bạn đủ khả năng thi đỗ kỳ thi này. Quyết định cuối cùng có thể được đưa ra hoặc không nhưng điều quan trọng nhất là trong suốt quá trình giao tiếp đó, bạn thuyết phục được người đối diện tin vào, hoặc chí ít, chấp nhận cách suy nghĩ của cá nhân bạn. Đó chính là lập luận! Để có thể lập luận tốt, việc đầu tiên bạn cần làm là xác định rõ mục đích bạn lập luận, hay nói cách khác, bạn cần nắm được chủ đề chính của việc giao tiếp. Việc lập luận sẽ hoàn toàn mất đi giá trị, nếu bạn đi chệch hướng hay đưa vào những thông tin không liên quan tới điều mà bạn muốn. Ta có thể thấy điều này rõ hơn thông qua một số ví dụ ở phần tiếp theo. Sau khi đã xác định được chủ đề chính, bạn cần phải có cho mình một quan điểm với chủ đề đó. Trong bài viết này, mình bỏ qua quan điểm trung lập mà chỉ nhắc tới hai luồng quan điểm chính với mọi vấn đề trong cuộc sống: ủng hộ (dafür) và phản đối (dagegen). Nếu quan điểm của bạn là ủng hộ điều gì, xu hướng của bạn sẽ là đưa ra những lập luận bảo vệ ưu điểm của nó (PRO-Argumente) và ngược lại, dĩ nhiên sẽ là những lập luận nhấn vào nhược điểm của nó (KONTRA-Argumente). Nói đơn giản hơn, bạn hãy tìm ra những Vorteile hoặc Nachteile phù hợp với mục đích của mình! 2. Cấu tạo của một lập luận Thông qua định nghĩa phía trên, ta có thể hiểu rằng việc lập luận thực chất chính là đưa ra minh chứng cho một quan điểm. Chỉ có như vậy thì bạn mới có thể thuyết phục người khác tin vào những gì bạn nói hay viết ra. Một lập luận, vì vậy, sẽ bao gồm việc đưa ra một nhận định mang tính đánh giá hay khẳng định (These/Behauptung), sau đó bạn cần trả lời câu hỏi “tại sao bạn lại nhận định như vậy?” (Begründung) và cuối cùng bạn cần đưa ra những thông tin cụ thể để hỗ trợ cho nhận định cũng như lý do bạn đưa ra (Stützung des Arguments). Về cơ bản, chúng ta có rất nhiều cách để hỗ trợ cho một nhận định, nhưng để ứng dụng cho việc học tiếng Đức cũng như đơn giản hóa, các ví dụ sau đây sẽ chỉ đề cập đến duy nhất các ví dụ cụ thể (Beispiel). Từ đây, ta rút ra rằng, để một lập luận có thể được coi là hiệu quả, ta cần tối thiểu có 3 chữ B lớn, bao gồm: Behauptung, Begründung và Beispiel. Tùy vào mục đích của việc giao tiếp, ta cũng có thể đưa ra thêm hệ quả hay đánh giá chung về nhận định đó ở cuối cùng (Schlussfolgerung) Ta cùng tham khảo ví dụ sau đây: Người học cần phải trình bày quan điểm của mình về sự phổ biến của ô tô (Fragestellung: Äußern Sie Ihre Meinung zur Verbreitung von Autos). Giả sử, mình cho rằng, việc ô tô trở nên phổ biến là điều hoàn toàn có thể hiểu được, mô hình lập luận của mình sẽ trông như sau: Behauptung: Ich persönlich halte die Verbreitung von Autos für selbstverständlich,… Begründung: …, denn das Autofahren bietet sehr viele Vorteile. Beispiel: Mit einem eigenen PKW kommt man i.d.R. direkt von Haustür zu Haustür, und zwar sehr bequem, da kein Umsteigen notwendig ist. Ở một ví dụ khác: Người học cần phải đưa ra các hình thức khác nhau nhằm duy trì tình bạn (Freundschaften pflegen), một trong số đó là việc liên lạc với bạn thông qua Internet. Giả sử, mình thích hình thức này và muốn nói kĩ hơn về nó, mô hình lập luận của mình sẽ trông như sau: Behauptung: Die Kontaktpflege via Internet gewinnt in der heutigen Zeit sehr an Beliebtheit, insbesondere unter jungen Menschen. Begründung: Heutzutage besitzt fast jeder von uns ein Smartphone und das Internet ist rund um die Uhr verfügbar. Beispiel: Wenn ich plötzlich an meinen guten Freund denke, kann ich ihm jederzeit eine Nachricht schreiben. Schlussfolgerung (persönliche Empfindung): Es ist sehr einfach und schnell. 3. Hình thức lập luận Về cơ bản, chúng ta có 2 hình thức lập luận: Lập luận chủ động: Đây là hình thức chính được sử dụng nhiều nhất trong cuộc sống, và dĩ nhiên, trong phần thi nói và viết của các kỳ thi tiếng Đức. Đây chính là hình thức được đề cập ở phía trên, tức là người nói/viết có cho mình một quan điểm và tự chuẩn bị các ý tưởng, ví dụ để bảo vệ cho quan điểm đó. Lập luận chủ động chia ra làm 2 hình thức nhỏ hơn, cái này chắc hẳn nhiều bạn đã học trong chương trình môn Ngữ Văn ở phổ thông: Lập luận diễn giải (deduktives Argumentieren) và lập luận quy nạp (induktives Argumentieren). Điểm khác biệt duy nhất giữa 2 hình thức này là ở vị trí của lý do cho một nhận định. Lập luận diễn giải sẽ đưa ra lý do sau khi đưa nhận định (như các bạn nhìn thấy ở ví dụ phần 2), còn lập luận quy nạp sẽ đưa ra lý do trước khi đưa ra nhận định. Như vậy, ta cùng xem ví dụ về ô tô phía trên sẽ trông như thế nào dưới góc nhìn quy nạp nhé: Begründung: Das Autofahren bietet viele Vorteile,… Behauptung: …, weshalb ich die Verbreitung von Autos für selbstverständlich halte. Beispiel: Mit einem eigenen PKW kommt man i.d.R. direkt von Haustür zu Haustür, und zwar sehr bequem, da kein Umsteigen notwendig ist. Lập luận bị động: Ở hình thức này, người nói/viết sẽ chỉ đưa ra quan điểm với mục đích phản hồi lại một quan điểm từ người khác. Việc tuân theo mô hình, cũng vì vậy, mà có thể linh hoạt thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh. Tuy vậy, điều quan trọng nhất vẫn phải được giữ nguyên: luôn luôn ghi nhớ lý do tại sao chúng ta bắt đầu lập luận và hãy giữ bản thân bám chặt vào lý do đó! 4. Cách thức lập luận Như đã nhắc tới phía trên, có rất nhiều cách để lập luận một vấn đề, hay nói đúng hơn, để hỗ trợ cho một nhận định, không chỉ riêng ví dụ cụ thể. Lấy ví dụ người học đang muốn đưa ra quan điểm rằng người đi xe đạp nhất thiết phải đội mũ bảo hiểm, mình xin trình bày 5 cách thức lập luận như sau: A. Lập luận dựa vào ví dụ cụ thể Như đã thấy ở các phần trên, việc đưa ra ví dụ cụ thể là cách dễ nhất để hỗ trợ cho một nhận định. Trong vô số ví dụ có thể lựa chọn, ví dụ có sức nặng nhất chắc chắn là trải nghiệm của chính bản thân người viết/nói. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Beispiel: Ich hatte im Februar dieses Jahres einen Fahrradunfall mit einem Auto, bei dem ich eine Rolle vorwärts über den Lenker gemacht habe. Dank meines Fahrradhelms hatte ich trotz mehrerer Verletzungen am Körper keine Kopfverletzungen, die deutlich gefährlicher gewesen wären als mein Ellenbogenbruch. B. Lập luận dựa vào dẫn chứng đáng tin cậy Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình bằng sự thật, số liệu, dữ liệu, thống kê, các tài liệu khoa học hay các bộ luật. Ưu điểm của cách này là mức độ tin cậy rất cao, nhưng đòi hỏi người viết/nói phải có hiểu biết sâu rộng và chính xác về vấn đề. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Beleg: Eine Statistik einer Kölner Klinik hat bei zehn getöteten Radfahrern ermittelt, dass neun von ihnen noch leben würden, wenn sie einen Helm getragen hätten. C. Lập luận dựa vào logic Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình bằng những lý luận rõ ràng, dễ hiểu và dễ được chấp nhận bởi số đông. Đây là một trong những cách rất hữu ích khi muốn làm mới lập luận của bản thân. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Erläuterung: Wenn der Kopf bei einem Unfall auf eine harte Oberfläche prallt, kann sich der Radfahrer lebensgefährlich verletzen. D. Lập luận dựa vào trích dẫn Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình bằng trích dẫn từ một người có tiếng nói nhất định trong lĩnh vực mà bạn đang đề cập. Cách này đòi hỏi người viết/nói có trí nhớ đủ tốt để có thể vận dụng một cách chính xác. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Zitat: Laut Baden-Württembergs Verkehrsminister Winfried Hermann müsse jede Möglichkeit genutzt werden, um die Köpfe der Radfahrer vor schwerwiegenden Verletzungen zu schützen. Eine bessere Methode als den Helm kenne er nicht. Er sei das Schutzschild Nummer eins. E. Lập luận dựa vào tính tương đồng Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình về một vấn đề bằng cách đưa ra sự so sánh với một vấn đề khác có tính chất tương tự. Cách này thoạt nhìn có vẻ giống như lập luận dựa vào logic, nhưng luận điểm được chọn ở đây cần cân nhắc kĩ hơn, đặc biệt là sự tương đồng với vấn đề ban đầu. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Analogie: Auch andere Verkehrsteilnehmer wie Motorrad- und Autofahrer schützen sich mit Helmen oder Gurt und Airbag vor schweren Verletzungen bei Unfällen Dĩ nhiên, nếu thời gian cho phép, không ai giới hạn số lượng cách thức lập luận các bạn có thể dùng cho cùng một nhận định. Chốt lại với ví dụ phía trên, ta có thể rút ra một kết luận cuối như sau: Daher ist eine gesetzliche Helmpflicht für Fahrradfahrer unbedingt erforderlich. Việc lập luận một vấn đề, trên thực tế, phức tạp hơn bài viết này của mình rất nhiều. Tuy nhiên, để dễ hiểu và dễ áp dụng hơn vào việc cải thiện kỹ năng nói và viết tiếng Đức, mình đã đơn giản hóa rất nhiều và thậm chí lược bỏ nhiều khái niệm hay của kỹ thuật lập luận. Hi vọng bài viết này của mình đã phần nào giúp các bạn cải thiện được việc lập luận và qua đó, đạt được kết quả tốt hơn! Chúc các bạn thành công! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
1. Hội chứng “vịt con” là gì? Bạn có bao giờ cảm thấy phim hoạt hình bây giờ không hay bằng hoạt hình bạn xem lúc nhỏ, cầu thủ thời nay đá không hay bằng cầu thủ thời trước, ca sĩ bây giờ hát không hay bằng ca sĩ ngày xưa v.v… Có thể một phần đúng là do “Thời nay” không bằng “Thời xưa” thật, nhưng có một điều chắc chắn là phần lớn sự sụt giảm chất lượng ấy chủ yếu xuất phát từ tâm lý của chúng ta, được gọi là Hội Chứng “Vịt Con”. Khi vịt con mới nở, nó coi vật thể chuyển động đầu tiên nó nhìn thấy là mẹ. Tất nhiên, thông thường, mẹ vịt sẽ ấp trứng và đón các con mình thoát khỏi vỏ trứng đầu tiên, nhưng lỡ chẳng may khi trứng nở, vịt mẹ lại kiếm mồi hay tắm rửa và tình cờ một chú gà đi ngang qua những quả trứng, bầy vịt con sẽ coi chú gà đó là… mẹ. Ở con người, hội chứng vịt con dùng để chỉ việc con người có xu hướng coi những trải nghiệm đầu tiên, những cảm xúc đầu tiên, những sự vật tiếp xúc đầu tiên là “tốt nhất”, “chuẩn nhất”. Chúng ta có thể lấy một ví dụ trong giới thể thao, cụ thể là môn thể thao vua: Những người thời trước từng say mê xem bóng đá tấn công sẽ nhận xét về bóng đá thị trường bây giờ là “thiếu lửa, toan tính, nặng về cơ bắp, thiếu sáng tạo v.v…”; ngược lại, những người “sinh sau đẻ muộn” và mới xem những trận bóng đầu tiên, nếu có tìm hiểu về lối bóng đá tấn công ngày trước, có thể nói là “thiếu kỷ luật, thiếu chiến thuật, không hiệu quả, rườm rà”. Nếu bạn đang xem một bộ phim truyền hình nhiều tập, được một nửa phim mà có một diễn viên trong ekip phải tạm biệt khán giả vì công việc riêng, một diễn viên mới vào đóng thay thì có thể nói, hầu như không bao giờ diễn viên mới có thể chiếm được cảm tình với khán giả như diễn viên cũ. Hoặc giả sử bạn nghe thấy tên một bài hát mới nổi, tra bài hát ấy trên mạng và tình cờ nghe thử “bản cover” của một người khác hát và thấy hay, thậm chí sau này có nghe bản của ca sĩ chính bạn cũng thấy không hay bằng bản cover. Ngược lại, phần đông những người khác khi nghe ca sĩ chính hát rồi sẽ thấy các bản cover không hay bằng. Phim thời nay thì nhiều kỹ xảo, hình ảnh đẹp hơn hẳn ngày trước nhưng không ý nghĩa, tình cảm và mang lại cho người xem nhiều cảm xúc bằng phim ngày xưa v.v… Nhìn chung, “hội chứng vịt con” không có gì quá nghiêm trọng nhưng thường làm chúng ta nhìn mọi thứ với con mắt thận trọng, khắt khe và không đón nhận cái mới. Về cơ bản, hiệu ứng này hạn chế sự phát triển, sự đổi mới và sức sáng tạo của mỗi người nói riêng và xã hội nói chung. Tuy nhiên, một mặt nó cũng giúp con người không dễ dàng lãng quên những giá trị xưa cũ, từ đó đặt ra thử thách cho những giá trị mới đó là phải không ngừng phát triển để tốt hơn, hiệu quả và độc đáo hơn. Đây là một hội chứng tâm lý mà gần như ai cũng mắc một cách tự nhiên, nên không có cách nào phòng tránh. Quan trọng là chúng ta biết đến nó, để nếu bắt gặp mình đang giống như “những chú vịt con” thì hãy tự nhắc nhở bản thân có cái nhìn thật khách quan hơn để đón nhận và cho cái mới cơ hội, đồng thời bản thân cũng có thêm nhiều sự trải nghiệm hấp dẫn và lí thú. Không có gì là vĩnh cửu, mọi thứ đều phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu cuộc sống, và chúng ta cũng cần tập thay đổi định kiến thì mới hòa nhập được với thế giới đổi thay từng ngày. 2. Tại sao ta từ chối khởi đầu mới? “Chào bạn, mình đã học xong B1 và muốn tham gia lớp học trình độ B1+ hoặc B2!” “Vâng, bạn cho chúng mình kiểm tra qua trình độ của bạn nhé. Đây là bài tập…” … “Chúng mình rất tiếc phải thông báo là bạn chưa đủ điều kiện tham gia lớp học như bạn yêu cầu. Lý do như sau:… Với kết quả này mình khuyên bạn tham gia lại lớp học trình độ A1 của bọn mình!” Sau đó, à thì thật ra trong đại đa số trường hợp là không còn sau đó nữa. Đối với số ít bạn không quen nghe chỉ trích, việc chỉ ra các bạn thiếu sót đến mức nào dù đã học lâu là quá đủ để các bạn chấm dứt trò chuyện. Đối với phần đông còn lại, dù hiểu được bản thân thiếu sót ở đâu thì cũng rất khó để các bạn ấy chấp nhận học lại từ trình độ dưới. Lý do là bởi: “Tôi đã học qua trình độ đó rồi mà…” Nếu so sánh với các câu chuyện phía trên, hẳn ta cũng thấy rằng sự khác biệt là không quá nhiều. Việc phải học lại ở một trình độ thấp hơn nhiều trình độ mình mong muốn là một cản trở tâm lý quá lớn, ngay cả khi người học biết rằng những vấn đề được chỉ ra là đúng. Ở thời điểm các bạn liên hệ đăng ký học, ấn tượng của các bạn về quan điểm, phương pháp dạy cũng như niềm tin vào thành tích khi học với bọn mình chắc hẳn rất tốt. Thế nhưng, ngay khi yêu cầu học lại xuất hiện, lập tức hiệu ứng “vịt con” có tác dụng và sự so sánh một thứ chưa trải nghiệm với một thứ đã từng trải nghiệm thường sẽ có kết quả: tôi từ chối một khởi đầu mới! Dĩ nhiên rồi, không có gì có thể đảm bảo rằng học lại với bọn mình là lựa chọn tốt nhất hoặc là bạn chắc chắn sẽ trở nên tốt hơn cả! Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sự việc, trong đó, phần lớn đến từ chính nỗ lực và sự nghiêm túc trong một quá trình đủ dài từ chính cá nhân người học. Nhưng nếu bạn đang đứng ở giữa và phân vân không biết nên làm gì, hãy cân nhắc lựa chọn mới một cách thật khách quan nhé. Không phải mọi sự khởi đầu mới đều tốn tiền bạc hay thời gian đâu! Lấy cảm hứng từ bài viết gốc tựa đề “Hội chứng vịt con” từ Fanpage “Tâm lý học tội phạm”. Tác giả: Kobe Minh họa: Minh Lý
Tuy đều là từ mượn, khá nhiều cặp từ (chủ yếu mang đuôi -ell và -al) có sự khác biệt lớn về mặt ý nghĩa. Trong bài viết này, mình muốn giới thiệu tới các bạn các cặp từ dễ gây nhầm lẫn nhất. 1. formal >< formell formal = nur die Form betreffend, d.h. äußerlichBsp. Der Redner geht an die formale Fassung seiner Ansprache. (Diễn giả đi vào phần chính thức của bài phát biểu) formell = den Konventionen entsprechend, förmlichBsp. Männer tragen meist einen Anzug mit Krawatte zu formellen Anlässen. (Đàn ông thường mặc vest và thắt cà vạt cho những dịp cần sự trang trọng) 2. effektiv >< effizient effektiv = lohnend, nutzbringendBsp. Die neue Lösung ist sehr effektiv. (Giải pháp mới là rất hiệu quả – về mặt giá trị sử dụng) effizient = wirtschaftlich und wirksamBsp. Der Mitarbeiter arbeitet auf eine sehr effiziente Art. (Người nhân viên đang làm việc theo một cách rất hiệu quả – về mặt kinh tế) 3. funktional >< funktionell funktional = auf die Funktion bezogenBsp. Funktionale Sicherheit ist ein Teil der Gesamtsicherheit. (An toàn chức năng là một phần của an toàn chung) funktionell = auf die Leistung bezogenBsp. Der Designer entwirft schöne und funktionelle Möbel. (Nhà thiết kế tạo ra những món đồ nội thất đẹp và chất lượng) 4. real >< reell real = tatsächlich, wirklichBsp. Der Ansatz bezieht reale Bedingungen ein. (Phương án này có tính tới các điều kiện thực tế) reell = anständig, handfestBsp. Die reellen Kosten des Projekts waren höher als erwartet. (Chi phí thực của dự án cao hơn so với mức kì vọng) 5. rational >< rationell rational = auf den Vernunft basierend, vernünftigBsp. Rationales Denken bedeutet, logisch zu denken. (Tư duy hợp lý có nghĩa là tư duy một cách logic) rationell = zweckmäßig, auf Wirtschaftlichkeit bedachtBsp. Heutzutage ist die rationelle Energienutzung sehr wichtig. (Ngày nay, việc sử dụng năng lượng có mục đích rõ ràng là rất quan trọng) 6. ideal >< ideell ideal = den besten Vorstellungen entsprechendBsp. Mein Hund ist der ideale Begleiter für Wanderungen. (Con chó của tôi là người đồng hành lý tưởng cho những chuyến đi bộ đường dài) ideell = die Idee betreffendBsp. Bildung ist ein ideeller Wert. (Giáo dục là một giá trị lý tưởng) 7. integrieren >< intrigieren integrieren = eingliedernBsp. Ausländer finden es schwer, in die deutsche Gesellschaft zu integrieren. (Người nước ngoài cảm thấy khó khăn khi hòa nhập vào xã hội Đức) intrigieren = Intrigen gegen jemanden anzettelnBsp. Die Rebellen intrigierten, um den König zu stürzen. (Quân nổi dậy âm mưu lật đổ nhà vua) 8. psychisch >< psychologisch psychisch = auf die Seele bezogenBsp. Seine psychische Gesundheit ist hervorragend. (Sức khỏe tinh thần của anh ấy là tuyệt vời) psychologisch = auf die Psychologie, die Wissenschaft der Psyche bezogenBsp. Die Durchführung der psychologischen Experimente ist umstritten. (Việc tiến hành các thí nghiệm tâm lý đang gây tranh cãi) Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Trong văn nói hay văn viết, việc đi thẳng vào vấn đề là rất tốt và đặc biệt phù hợp đối với tiếng Đức. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, việc diễn tả một sự vật hay sự việc quá cụ thể sẽ tạo ra sự nhàm chán cho người đọc. Hãy cùng tham khảo ví dụ sau đây: Paul hatte nach seiner Knieverletzung starke Schmerzen und weinte laut (Sau khi bị chấn thương đầu gối, Paul bị đau rất nặng và anh ấy đã khóc rất to). Câu phía trên, tuy không hề sai ngữ pháp hay thiếu thông tin, nhưng khá đơn giản và không khiến cho người đọc liên tưởng nhiều. Thay vì thế, chúng ta có thể viết như sau: Paul hatte nach seiner Knieverletzung starke Schmerzen und schrie wie am Spieß (Sau khi bị chấn thương đầu gối, Paul bị đau rất nặng và anh ấy hét lên như bị giáo đâm). Bằng một phép so sánh đơn giản, người đọc cảm thấy câu văn dễ hình dung hơn rất nhiều. Cụm từ “wie am Spieß schreien” cũng được sử dụng phổ biến trong tiếng Đức với nghĩa là “mit aller Kraft losbrüllen”. Trong bài viết này, chúng ta cùng tham khảo thêm vài phép so sánh mà người Đức hay dùng để giúp cho việc diễn tả một sự vật được thú vị hơn nhé: stark wie ein Bär = bärenstark (mạnh mẽ như gấu) kalt wie Eis = eiskalt (lạnh như băng) klar wie Glas = glasklar (rõ ràng như tấm kính) rot wie Feuer = feuerrot (đỏ như lửa) schnell wie der Blitz = blitzschnell (nhanh như chớp) leicht wie eine Feder = federleicht (nhẹ như lông) schlau wie ein Fuchs = fuchsschlau (khôn như cáo) still wie der Tod = totenstill (yên tĩnh như cái chết) klar wie Glas = glasklar (rõ ràng như tấm kính) weich wie Butter = butterweich (mềm như bơ) hart wie ein Stein = steinhart (cứng như đá) Còn rất rất nhiều phép so sánh khác nữa đó. Hãy cùng thảo luận với chúng mình xem bạn biết phép so sánh nào mà người Đức hay dùng nữa nhé! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Folge 2 Nối tiếp bài viết phần 1, hôm nay mình quay trở lại để giải thích nốt cho các bạn một số Modalpartikel đặc trưng khác trong tiếng Đức. 9. schon Với việc sử dụng “schon”, người nói muốn thể hiện quan điểm về một điều gì đó, trong khi người nghe lại có suy nghĩ khác về điều này. Bsp. Das sollst du schon wissen = Du denkst, dass du das nicht wissen musst. Aber ich finde es wichtig. Trong câu hỏi, người nói sử dụng “schon” khi không muốn đón nhận câu trả lời trong trạng thái tương đối tiêu cực. Bsp. Wer weiß das schon? = Ich glaube, dass es niemand weiß. Trong mệnh lệnh thức, người nói sử dụng “schon” khi muốn yêu cầu hoặc động viên người nghe làm một việc gì đó. Bsp. Sprich sie schon an! = Du solltest die Frau ansprechen. Ich glaube wirklich, dass sie an dir interessiert wäre. Bsp. Komm schon! chính là phiên bản tiếng Đức của “Come on!” 10. ruhig “ruhig” chỉ sử dụng trong mệnh lệnh thức. Nó giúp người nói thể hiện với người nghe rằng, họ cho phép người nghe làm điều gì đó. Bsp. Geh mal ruhig nach Hause! = Du musst nicht mehr arbeiten und kannst nach Hause gehen. 11. vielleicht “vielleicht” được sử dụng trước một tính từ hay một danh từ để làm mạnh quan điểm của người nói. Bsp. Das ist vielleicht teuer = Ich finde das sehr teuer. Bsp. Ich bin vielleicht ein Idiot = Ich bin wirklich ein Idiot. 12. aber Khác với khi là một liên từ, “aber” khi là Modalpartikel đứng trước tính từ sẽ mang lại ý nghĩa tương tự như khi ta dùng “sehr” hay “wirklich”, tức là khi muốn gia tăng cường độ. Bsp. Das ist aber toll! = Ich finde das wirklich toll. 13. bloß “bloß” chỉ được sử dụng ở mệnh lệnh thức và giúp người nói tăng mức độ cấp thiết của yêu cầu. Bsp. Sei bloß vorsichtig! = Du musst wirklich vorsichtig sein, sonst wird etwas Schlimmes passieren. 14. wohl Khi sử dụng “wohl”, người nói muốn thể hiện rằng mình không thật sự chắc chắn với điều gì đó. Trong nhiều trường hợp thì “wohl” có thể được coi là đồng nghĩa với “wahrscheinlich”. Bsp. Wo ist denn der Philipp? – Der ist wohl nach Hause gegangen = Ob er schon nach Hause gegangen ist, bin ich nicht sicher. Aber es scheint mir wahrscheinlich so zu sein. Oder jemand hat mir gesagt, dass er schon nach Hause gegangen ist. Oder ich weiß einfach nicht genau, ob das stimmt. 15. eigentlich “eigentlich” chỉ được sử dụng trong câu hỏi. Thông qua nó, người nói muốn chuyển chủ đề cuộc nói chuyện một cách lịch sự. Bsp. Hast du das EM-Finale eigentlich schon geguckt? = Wir haben gerade über etwas anderes geredet. Aber jetzt wollte ich plötzlich wissen, ob du das EM-Finale schon geguckt hast oder nicht. 16. einfach Khi sử dụng “einfach”, người nói muốn thể hiện rằng điều gì đó là không thành vấn đề. Bsp. Was wollen wir am Wochenende machen? – Komm einfach zu mir! = Ich freue mich, wenn du kommst, und das ist ein logischer Vorschlag. Ngoài ra, người nói còn sử dụng “einfach” để thể hiện sự không hài lòng với một tình huống nào đó và họ đang muốn chỉ trích. Bsp. Ich habe ihm mein Übungsheft verliehen. Er hat es einfach so angenommen, ohne Danke zu sagen = Ich finde, er hätte mir danken müssen. Cuối cùng, người nói sử dụng “einfach” để nói về một sự việc đơn giản là phải như vậy và sẽ luôn là như vậy. Bsp. Ich werde mit dem Deutschlernen einfach aufhören = Ganz egal, was ich mache – ich habe nicht die Motivation und/oder das Talent, um diese Sprache weiter zu lernen. Tác giả: Kobe
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi câu hỏi này hay chưa: “Tại sao tiếng Đức cần có sự tồn tại của Nominativ, Akkusativ và Dativ?”. Vậy thì trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này, đồng thời khám phá mô hình tiếp theo trong việc xây dựng câu của tiếng Đức, mô hình ngữ pháp truyền thống, hay còn được gọi là mô hình SPO. SPO chính là viết tắt của Subjekt (chủ ngữ), Prädikat (hành động) và Objekt (tân ngữ). Nó được gọi là mô hình ngữ pháp truyền thống bởi vì nó mang điểm chung của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới: không có bất kì ngôn ngữ nào mà khi dựng một câu cơ bản, bạn không thể chỉ ra đâu là chủ ngữ, đâu là hành động và đâu là tân ngữ (nếu có). Mô hình SPO coi chủ ngữ (chủ thể gây ra hành động) là trọng tâm của một câu và các thành phần khác sẽ phụ thuộc vào chủ ngữ. Chủ ngữ ở trình độ cơ bản có thể là danh từ (Substantiv), lên cao dần sẽ mở rộng ra thêm, bao gồm đại từ (Pronomen), động từ nguyên thể được cấu tạo thành danh từ (Infinitiv), cụm từ mang giá trị danh từ (Nominalphrase) hay cụm từ được cấu tạo từ Partizip I hoặc II (Partizipialkonstruktion). Về mặt cơ bản, chủ ngữ trong một câu là bắt buộc phải có. Thậm chí ngay cả trong những trường hợp mà không chủ thể nào gây ra hành động được nhắc tới thì người Đức vẫn thêm vào đó một chủ ngữ giả, ví dụ như: Es regnet (trời mưa) Es ist unmöglich (không thể nào) Như vậy, khi một câu đã có chủ ngữ (Subjekt) thì chủ ngữ đó phải tạo ra hành động nào đó (Prädikat) và trong rất nhiều trường hợp thì hành động đó cũng phải hướng tới các đối tượng cụ thể (Objekt). Các bạn có thể thấy, cách sắp xếp trình tự như vậy rất logic và dễ để nghĩ ra. Ngoài ra, tiếng Việt của chúng ta hay tiếng Anh cũng hầu như đều xây dựng câu cơ bản theo trình tự như vậy. Thế tại sao tiếng Việt hay tiếng Anh lại không cần cách (Kasus), còn tiếng Đức lại cần? Như chúng ta đã biết, có một quy tắc về việc sắp xếp các từ trong một câu chính (Hauptsatz) của tiếng Đức là: Trừ động từ, ta có thể đảo bất kì thành phần nào mà ta muốn lên đầu câu và câu vẫn đảm bảo đúng ngữ pháp (dĩ nhiên có trường hợp ngoại lệ nhưng mình không muốn nhắc tới trong bài này). Vậy thì khi câu có từ 2 danh từ (không đi kèm giới từ) trở lên, làm thế nào ta biết được danh từ nào là chủ ngữ? Trước tiên, ta cùng xem ví dụ sau: Ich sehe die Dörfer. (Tôi nhìn thấy những ngôi làng.) Die Dörfer sieht jeder von uns. (Ai trong chúng tôi cũng nhìn thấy những ngôi làng.) Ở trường hợp này, việc chia động từ sẽ giúp chúng ta xác định chủ ngữ, bởi vì động từ chính của câu sẽ luôn được chia theo chủ ngữ (ngôi “ich” là “sehe” và ngôi “jeder” là “sieht”). Vậy còn trường hợp này thì sao? Doraemon liebt jedes Kind. Câu này nên được hiểu như thế nào? Liệu là Doraemon yêu quý từng đứa trẻ hay là đứa trẻ nào cũng yêu quý Doraemon? Cả 2 cách hiểu đều đúng ngữ pháp nhưng nếu không có sự xuất hiện của Kasus thì dựa vào trình tự SPO hay thông qua đối chiếu tiếng Việt, người đọc có xu hướng nghiêng về cách hiểu đầu tiên hơn. Vậy thì để tránh hiểu nhầm, tiếng Đức cần có Nominativ (để biểu thị chủ ngữ) và Akkusativ/Dativ (để biểu thị tân ngữ). Ngoài ra, trong nhiều thứ tiếng (trong đó có tiếng Đức), một danh từ luôn có thể được thay thế bằng một đại từ. Tiếng Đức với đặc tính về giống của danh từ luôn đòi hỏi thay thế một danh từ bằng đại từ mang giống tương đồng với nó. Vậy giả sử nếu tân ngữ chỉ có thể được biểu thị bằng Akkusativ và trong 1 câu có 2 tân ngữ, trường hợp sau đây có thể xảy ra: Die Kreditkarte gibt er Anna. (Anh ấy đưa Anna thẻ tín dụng của anh ấy.) Sie gibt er sie. (Thay thế “Anna” bằng “sie” và “die Kreditkarte” bằng “sie”) Vậy vấn đề tương tự như trên lại xuất hiện: Anh ấy đưa thẻ tín dụng cho Anna hay anh ấy đưa Anna cho thẻ tín dụng? Để giải quyết vấn đề này, tiếng Đức cần có Akkusativ để chỉ vật và Dativ để chỉ người trong trường hợp có nhiều hơn một tân ngữ. Sự xuất hiện của Nominativ, Akkusativ và Dativ là chưa đủ để biết chắc danh từ nào đóng vai trò là chủ ngữ của câu, nhưng nó là cần thiết để tạo ra tính tương phản về mặt ngữ pháp nhằm giúp người học, đặc biệt ở trình độ sơ cấp, dễ tiếp cận tiếng Đức hơn. Quay lại với SPO, như chúng ta đã thấy ở các ví dụ phía trên, việc chủ ngữ nắm vai trò chính sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc chia động từ (như đã nói, động từ chính luôn chia theo chủ ngữ). Ngoài ra, việc xác định rõ chủ ngữ và hành động trước tiên trong những cấu trúc câu ghép, câu có nhiều danh từ hoặc khi câu có quá nhiều thành phần bổ trợ sẽ giúp chúng ta gỡ rối nhanh hơn, qua đó tăng đáng kể tốc độ đọc hiểu văn bản. Tuy vậy, SPO có một điểm yếu cực lớn là không giúp người học nắm được các thành phần hỗ trợ động từ như Valenz và không giúp người học định hình về việc sắp xếp thứ tự các từ trong câu như Felder. Ngoài ra, việc lấy chủ ngữ làm trọng tâm cũng vấp phải trở ngại lớn khi có không ít trường hợp đặc biệt về việc xây dựng câu không có hoặc rút gọn chủ ngữ. Cuối cùng, một ngoại lệ nữa về quy tắc chủ ngữ luôn ở Nominativ là những tân ngữ đứng sau động từ sein, werden, bleiben, heißen,… cũng đi cùng với Nominativ. Nói chung là cứ ngoại lệ là không vui rồi xD. Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Từ vựng, Ngữ pháp, Thành Ngữ: Đó là những gì mà bộ não cần để nhận ra một ngôn ngữ mới. Nhà xuất bản và các trung tâm dạy tiếng quảng cáo những công thức học thành công, giáo viên thì hứa hẹn những phương pháp học được cá nhân họ phát triển, còn các bạn học viên thì truyền tai nhau các mẹo vặt. Mục đích là: làm sao thành thạo ngoại ngữ càng nhanh càng tốt để có thể sử dụng nó trong cuộc sống hàng ngày. Trong nhiều năm gần đây, các nhà nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu điều gì xảy ra trong não bộ khi ta học ngoại ngữ. Mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp trong lĩnh vực nghiên cứu này, nhưng có một điều chắc chắn: không có một phương pháp học tập nào là tối ưu cả. Nhưng có một vài kiến thức mà người học ngôn ngữ cần lưu tâm nếu họ muốn đạt được thành công nhanh chóng. Học từ vựng: Cách kết nối mạng lưới cho não bộ Khác với một cuốn từ điển, cái gọi là “từ vựng tinh thần” – nơi lưu trữ từ vựng trong não của chúng ta – giống như một mạng lưới khổng lồ: các từ và cách diễn đạt phù hợp có thể được kết hợp thành câu trong nháy mắt bằng cách sử dụng vô số liên kết. Một từ được kết nối càng tốt thì chúng ta càng dễ dàng nhớ ra nó trong trường hợp cấp thiết. Để tạo nên một mạng lưới như vậy, ta cần lưu ý 2 điểm quan trọng: số lượng và chất lượng. Khi nhắc đến số lượng, ta có thể dễ dàng nhận thấy: Nếu chúng ta thường xuyên dùng một từ, thì não chúng ta luôn trong tư thế sẵn sàng để cung cấp từ đó. Người học ngoại ngữ tạo ra rất nhiều ảnh hưởng lên chất lượng của mạng lưới đó: chúng ta càng có nhiều ký ức, cảm xúc hoặc liên tưởng với một cách diễn đạt ngôn ngữ, thì bộ não càng dễ dàng tiếp cận nó. Hẳn ai trong chúng ta cũng từng có trải nghiệm vật lộn để nhớ từ vựng trong một cuộc trò chuyện: Đáng ra chúng ta phải biết từ đó, thậm chí là còn phải nhớ nó nằm ở danh sách từ vựng chương nào của giáo trình. Nhưng chúng ta hoàn toàn không thể nhớ ra từ đó, thậm chí chúng ta còn cảm thấy hơi khó chịu với chính mình. Điều này chỉ được giải quyết khi có người giúp chúng ta tìm được từ đó. Kể từ thời điểm đó, từ này sẽ ở lại trong não và có thể được gợi nhớ bất cứ lúc nào – bởi vì bây giờ chúng ta đã kết nối nó với ký ức và cảm giác. Vì vậy, điều quan trọng là thực hành với những từ vựng mới: tạo các câu ví dụ, nghĩ ra các tình huống mà chúng ta có thể sử dụng chúng hoặc chỉ để nghĩ xem liệu chúng ta có thấy từ đó đẹp hay không và nếu có thì tại sao. Đặc biệt, các câu ví dụ là một công cụ hoàn hảo hỗ trợ trí nhớ cho não bộ. Các nhà ngôn ngữ học khuyên rằng hãy luôn học từ vựng theo cách kết hợp từ. Cách này còn có một lợi thế khác: Nó không chỉ hỗ trợ kết nối mạng lưới từ vựng, mà còn có thể tránh vấp khi sử dụng ngôn ngữ đó. Ví dụ, nếu ai đó mới học rằng xe buýt có nghĩa là ‘bus’ trong tiếng Anh, có khả năng họ sẽ diễn đạt sai thành câu sau: „I drive with the bus“. Nếu ta học từ đó với những kết hợp điển hình như „I go by bus“ hoặc „I get off the bus“, chúng ta có thể tránh được những lỗi như vậy. Nghiên cứu về khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ em cho thấy kiểu học này đặc biệt phù hợp với cách học của não bộ: trẻ em đầu tiên học các cách diễn đạt cố định bằng tiếng mẹ đẻ và sau đó chỉ học các từ riêng lẻ. Ví dụ, họ sớm biết rằng “chúc ngủ ngon” (Gute Nacht) luôn được nói trước khi đi ngủ. Mãi sau này, não của họ mới phân tích được rằng chúng là hai từ độc lập. Hãy tắm ngôn ngữ Du lịch là cơ hội tốt nhất để tắm ngôn ngữ. Nhưng ngay cả khi ở nhà thì ta vẫn có nhiều cơ hội để luyện tập điều này. Các nhà nghiên cứu về não bộ biết rằng: bộ não của chúng ta gần như tự học, miễn là chúng ta có đủ thông tin đầu vào và cơ hội để thực hành. Do đó, bất kỳ tình huống nào có giao tiếp thực tế, không phải là học mà là về các nội dung khác, đều hữu ích cho việc học ngôn ngữ. Ngay cả khi trưởng thành, chúng ta vẫn có thể hưởng lợi từ khả năng học ngôn ngữ bẩm sinh này. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào cũng dễ dàng tìm được cơ hội thực hành, vì ở Đức hiếm khi có nhu cầu thực sự về việc sử dụng ngoại ngữ (và ở nhiều quốc gia khác cũng vậy). Bất kỳ ai sẵn sàng học hỏi đều có thể tạo ra một vài cơ hội để tắm ngôn ngữ. DVD mang đến cơ hội xem phim hoặc phim dài tập bằng ngôn ngữ gốc. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng phụ đề bằng tiếng nước ngoài: Các nghiên cứu cho thấy hầu như không có bất kỳ hiệu quả học tập nào cả khi có phụ đề bằng tiếng mẹ đẻ. Ngay cả Internet cũng có thể được sử dụng để học ngôn ngữ. Ví dụ, những người đăng bài viết về chủ đề yêu thích của họ trên một diễn đàn ngoại ngữ, trò chuyện hoặc viết bằng một ngôn ngữ khác, là đã tham gia quá trình tương tác và học tập. Ngay cả những người thích hát theo các bài hát tiếng Anh yêu thích của họ cũng đang làm điều gì đó cho kỹ năng ngoại ngữ của họ – nói cho cùng thì chúng ta đang học thuộc lòng một đoạn văn bản dài hơn với lời bài hát, qua việc đó vô số tổ hợp từ lại được cung cấp cho não bộ chúng ta, và giúp chúng ta mở rộng vốn từ vựng của mình. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết là chúng ta không chỉ hát theo một cách thiếu suy nghĩ mà còn phải xử lý văn bản – ví dụ bằng cách tự hỏi liệu chúng ta có chọn những từ này hay chúng ta sẽ thể hiện, diễn đạt từ đó như thế nào. No Fun No Gain Cho dù qua DVD, Internet hay khóa học ngôn ngữ – điều quan trọng nhất là, đã học thì phải vui. Bởi vì cảm giác tiêu cực là liều thuốc độc cho việc học: Khi buồn chán, sợ hãi hoặc áp lực phải thành công, bộ não sẽ từ chối làm nhiệm vụ của nó. Lý do: Hệ thống limbic, chịu trách nhiệm về phần thưởng trong não, không còn hoạt động nữa. Sự hợp tác giữa các dây thần kinh bị chậm lại và tập trung vào việc học sẽ khó hơn. Vì vậy, đó là một điều tốt khi các nhà nghiên cứu có thể đưa ra rõ ràng lời cảnh tỉnh cho cách học tập truyền thống đặc biệt đáng sợ: Bất cứ ai nghĩ rằng mình chưa nắm vững ngữ pháp cũng không nên quá buồn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng lỗi ngữ pháp không có ảnh hưởng đáng kể đối với giao tiếp. Chuyển dịch: Kobe Minh họa: Huyền Kiu Bài viết gốc: Fremdsprachen: So lernt das Gehirn am besten
Trong quá trình học ngoại ngữ nói chung hay tiếng Đức nói riêng, ta sẽ càng tự tin trong việc ứng dụng ngôn ngữ nếu ta càng biết nhiều những cụm từ mang nghĩa cố định (feste Wendungen). Một trong số đó phải kể tới thành ngữ (Redewendung). Chúng là những cụm từ mang nghĩa cố định nhưng người đọc không thể suy luận ra ý nghĩa của cả cụm từ chỉ bằng việc hiểu nghĩa từng thành phần của nó. Từ đây ta lại có các cấp độ khác nhau của thành ngữ như sau: 1. Cụm từ mang nghĩa bóng toàn phần (vollidiomatische Wendungen) Ở nhóm này, tất cả các thành phần cấu thành của cụm từ đều từ bỏ ý nghĩa đơn lẻ để phục vụ chung cho một ý nghĩa tổng thể ẩn phía sau. Ví dụ trong cụm “jemand macht aus einer Mücke einen Elefanten” (ai đó biến con kiến thành con voi) không hề liên quan gì đến bản thân con voi và con kiến, mà nó chỉ mang đến cho chúng ta một hình ảnh tượng hình để so sánh với việc một người thích nghiêm trọng hóa một sự việc nhỏ (tương tự câu “chuyện bé xé ra to” trong tiếng Việt). Sau đây là một vài ví dụ khác thuộc nhóm này: a. jemandem Jacke wie Hose sein: điều gì đó không có ý nghĩa gì hay không mang lại sự khác biệt nào. Es ist ihm Jacke wie Hose, was es heute Abend zu essen gibt. (Đối với anh ấy thì dù tối nay có gì ăn thì cũng chẳng có gì khác nhau.) b. vor jemandem/etwas den Hut ziehen: thể hiện sự tôn trọng/tán thưởng với ai hoặc điều gì. Vor den Feuerwehrleuten, die sich zu jeder Zeit bereit erklären, ehrenamtlich Hilfe zu leisten, kann man nur den Hut ziehen. (Ta chỉ có thể ngả mũ thán phục trước những người lính cứu hỏa, những người luôn sẵn sàng tình nguyện giúp đỡ (những người bị nạn) bất kể thời gian nào.) 2. Cụm từ mang nghĩa bóng một phần (teilidiomatische Wendungen) Ở nhóm này, một thành phần nào đó của cụm từ vẫn giữ ý nghĩa gốc của nó (thường là động từ) nhưng toàn bộ nội dung câu lại mang ý nghĩa khác. Ví dụ trong cụm “jemand staunt Bauklötze”, động từ “staunen” vẫn mang ý nghĩa gốc của nó nhưng về mặt ngữ pháp, động từ này đáng ra không thể đi cùng danh từ “Bauklötze”. Cụm từ này thực chất mang ý nghĩa là ai đó đang rất rất bất ngờ. Sau đây là một vài ví dụ khác thuộc nhóm này: a. jemand lebt auf großem Fuß: ai đó sống một cuộc sống giàu sang, tận hưởng Niemand weiß, wie er es sich leisten kann, auf großem Fuß zu leben. (Không ai biết anh ta đã làm thế nào để có thể có được một cuộc sống hưởng thụ như vậy.) b. jemand hat eigene vier Wände: ai đó có một nơi để ở (một ngôi nhà, một căn hộ,…) In ihren eigenen vier Wänden durfte sie machen, was sie wollte. (Trong không gian riêng của mình, cô ấy được phép làm tất cả những gì cô ấy muốn.) 3. Cụm từ không mang nghĩa bóng (nichtidiomatische Wendungen) Về cơ bản, đây chính là những cụm danh từ đi với động từ xác định (formelhafte Wendungen). Ở đây, tất cả các thành phần của cụm từ đều mang ý nghĩa gốc của nó nên người học thường không gặp khó khăn gì trong việc đọc hiểu. Ví dụ cụm “jemand gießt Blumen” không mang ý nghĩa gì khác ngoài nghĩa gốc là ai đó đang tưới hoa. Tuy vậy, vì không được xem là thành ngữ, người học có xu hướng không để ý đến các cụm từ này. Hệ quả là người học sẽ không biết danh từ nào sẽ có thể đi với động từ nào theo tiêu chuẩn của người Đức, dẫn đến những lỗi sai về mặt diễn đạt (Ausdruck), một trong những lỗi sai phổ biến nhất khi học tiếng Đức (tham khảo thêm các ví dụ và lỗi sai trong bài viết “Tại sao nên học từ theo cụm?”). Tác giả: Kobe Minh họa: Quỳnh Trang
Trong số những từ cơ bản mình từng gặp, mit có lẽ nằm trong nhóm có cách sử dụng đa dạng nhất. Ở bài viết này, mình sẽ giới thiệu với các bạn về các nét nghĩa và cách sử dụng của mit trong các văn cảnh khác nhau. A. Dưới tư cách giới từ (Präposition) Khi làm giới từ, mit chắc chắn sẽ phải đi cùng với một danh từ/đại từ khác và danh từ/đại từ đó được chia ở Dativ. Trong từng trường hợp cụ thể, mit sẽ: 1. thể hiện sự đồng nhất, tính cộng đồng, hay việc hợp tác với một hoặc nhiều cá thể khác trong một hoạt động nào đó, ví dụ: Sie war mit uns in der Stadt. (Cô ấy đã ở trong thành phố cùng chúng tôi.) Willst du mit uns essen? (Bạn có muốn ăn cùng chúng tôi không?) 2. thể hiện tính chất qua lại trong một hành động cụ thể nào đó, ví dụ: Sie besprechen sich mit den Kunden. (Họ bàn bạc (qua lại) với khách hàng.) Ich denke, es ist besser miteinander zu reden anstatt sich miteinander zu streiten. (Tôi nghĩ tốt hơn là nói chuyện với nhau thay vì gây gổ.) 3. thể hiện sự liên quan (chủ động hay bị động) vào một hành động hoặc một quá trình, ví dụ: Verkehrsunfälle mit Kindern (Tai nạn giao thông liên quan đến trẻ em) 4. thể hiện sự sở hữu, ví dụ: Herr Müller mit Frau (Ngài Müller cùng vợ) Ein Haus mit Garten (Một ngôi nhà có vườn) 5. thể hiện tính bao gồm (đồng nghĩa với einschließlich, samt), ví dụ: Der Preis beträgt 50 Euro mit Bedienung. (Giá tiền là 50 Euro đã bao gồm (phí) dịch vụ.) Mit mir sind es acht Gäste. (Tính cả tôi là (ta) có 8 vị khách.) 6. thể hiện rằng một vật chứa bất kì nào đó đang chứa thứ gì, ví dụ: Ein Haus mit drei Schlafzimmern (Một ngôi nhà có 3 phòng ngủ) Ein Glas mit Honig (Một lọ thủy tinh chứa mật ong) 7. thể hiện hoàn cảnh đi kèm với một sự việc hay cách thức mà sự việc đó diễn ra, ví dụ: Wir essen mit Appetit. (Chúng tôi ăn với cảm giác ngon miệng – Chúng tôi (sẽ) ăn thật ngon.) Das hat er mit Absicht getan. (Anh ta đã cố tình làm thế.) 8. nói tới công cụ (hỗ trợ) cho một hoạt động nào đó, ví dụ: Sich die Hände mit Seife waschen (Rửa tay với xà phòng) Er ist mit dem Auto gefahren. (Anh ấy đã tới đây bằng ô tô.) 9. thể hiện mối liên kết giữa động từ và tân ngữ trong một câu, ví dụ: Es geht langsam voran mit der Arbeit. (Công việc đang tiến triển dần dần – khi không có “mit der Arbeit”, người đọc không thể hiểu được thứ gì đang tiến triển) Was ist los mit dir? (Có chuyện gì xảy ra với bạn vậy? – khi không có “mit dir”, người đọc không hiểu cụ thể câu hỏi đang hướng tới ai) 10. thể hiện tính hài hòa, liên tục của một sự việc hay một chuyển động, ví dụ: mit Strömung rudern (chèo (thuyền) xuôi theo dòng chảy) Sie gehen mit der Zeit. (Họ đi cùng thời đại – có nghĩa là họ thích ứng với dòng chảy thời đại cũng như những thay đổi của nó) 11. thể hiện việc một sự kiện, một sự việc nào đó rơi vào đúng khoảng thời gian nào, ví dụ: Mit 18 Jahren bin ich nach Deutschland geflogen. (Tôi bay đến Đức vào năm 18 tuổi.) Mit dem heutigen Tag ist die Frist abgelaufen. (Thời hạn đã kết thúc vào ngày hôm nay.) B. Dưới tư cách trạng từ (Adverb) Điều này có lẽ sẽ gây ra nhiều ngạc nhiên cho các bạn đang học tiếng Đức cơ bản, vì hầu như chúng ta đều được học rằng mit là một giới từ luôn luôn đi cùng Dativ. Tuy vậy, nếu bạn nào đã ở Đức được một thời gian thì chắc chắn không lạ gì với các ví dụ sau: Ich gehe mit nach oben. (Tôi sẽ đi cùng lên trên gác.) Das gehört nicht mit in die Wäsche. (Cái này không thuộc nhóm đồ cần giặt.) Trong những trường hợp này, mit được sử dụng đơn lẻ (tức là không đi cùng danh từ hay đại từ) và thể hiện sự tham gia mang tính tạm thời hoặc ý tưởng về sự liên kết (nét nghĩa gần như “auch”). Ngoài ra, mit cũng có thể được ghép trực tiếp vào rất nhiều động từ (tư cách tiền tố) để mang đến nét nghĩa tương tự (ví dụ: mitarbeiten, mitbringen, mitfahren, mitreißen, mitteilen,…). Về cơ bản, cách viết liền (dạng tiền tố) hay viết tách (dạng trạng từ) đều được chấp nhận, có nghĩa là: mitansehen và mit ansehen là như nhau mitberücksichtigen và mit berücksichtigen là như nhau mitnehmen và mit nehmen là như nhau Sau đây, chúng ta cùng xem qua các nét nghĩa khác nhau của mit ở dạng trạng từ: 1. cùng với cái khác, bên cạnh một hoặc vài thứ khác, cũng như, tương tự vậy (từ đồng nghĩa: auch, ebenfalls), ví dụ: Das gehört mit zu deinen Aufgaben. (Đó là một phần công việc của bạn.) Das musst du mit berücksichtigen. (Bạn cũng phải tính tới cả điều đó nữa.) 2. sử dụng cùng với so sánh nhất (Superlativ), thường chỉ dùng trong văn nói, ví dụ: Das ist mit das wichtigste der Bücher = Das ist eines der wichtigsten Bücher. (Đây là một trong những quyển sách quan trọng nhất.) 3. thể hiện một sự tham gia hay sự liên quan tạm thời khi sử dụng để bổ nghĩa cho một động từ, ví dụ: Kannst du ausnahmsweise einmal mit anfassen? (Bạn có thể cho một ngoại lệ và cùng chạm vào đây (với tôi) một lần được không?) Warst du auch mit? = Warst du auch dabei, bist du auch mitgegangen, mitgefahren? (Bạn có ở đó/đi cùng không?) 4. được sử dụng trong Umgangssprache ở phía bắc nước Đức: Được tách ra từ các từ như damit hay womit, ví dụ: Da habe ich nichts mit zu schaffen = Damit habe ich nichts zu schaffen. (Tôi không có gì để làm với điều đó.) Cách đây không lâu, mình đã đọc được một câu hỏi khá hay: Sự khác nhau giữa “Er nimmt den Hund nach Hause mit” và “Er nimmt den Hund mit nach Hause” là gì? Hi vọng bài viết trên đây của mình đã giúp bạn có câu trả lời cho câu hỏi đó! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu