Điều này có vẻ ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều người mỗi lần băn khoăn về việc chọn trường, chọn ngành trước khi đi du học. Trường A có xếp hạng cao hơn trường B không? Trường C có phải trường tốt nhất bang không? Trường D có phải trường trong top thế giới không? Khối 9 trường đại học kĩ thuật hàng đầu tại Đức (TU9) có phải cũng danh giá như Ivy League ở Mỹ không?… Khá nhiều bạn trẻ thật sự chọn cho mình trường để theo học tại Đức dựa vào Hochschulranking (Bảng xếp hạng các trường đại học) và hi vọng thông qua đó có thể có được những cơ hội thăng tiến tốt hơn trong sự nghiệp. Câu hỏi đặt ra là: điều này có thật sự đáng tin hay không? Trước khi đưa ra nhận xét chủ quan, tại sao chúng ta không tham khảo trực tiếp ý kiến từ những người có trách nhiệm với việc tuyển dụng nhân sự cho các công ty, tập đoàn khác nhau tại Đức nhỉ? Dưới đây là các câu trả lời cho câu hỏi: “Bạn nghĩ gì nếu sinh viên chọn trường đại học dựa vào Hochschulranking?” 1. Meral Eichwald, Human Resources, Stryker Osteosynthesis “Bất kì hình thức nào của việc cân nhắc những lựa chọn trường đại học hoặc nội dung khóa học đều có ý nghĩa. Tuy nhiên, bạn cũng có thể tự nâng hạng việc học của mình tại các trường đại học có thứ hạng thấp hơn bằng cách sớm tiếp cận với thực tế thông qua việc làm thực tập, những công việc tạm thời hay các khóa học bổ sung, lấp đầy các khoảng trống kiến thức và qua đó tự mình định hình việc mình cần học những kiến thức gì khi còn đi học”. 2. Alfred Lukasczyk, Personalmarketing, Evonik Industries AG “Tôi cho rằng việc các sinh viên tương lai xem xét kĩ lưỡng việc chọn trường đại học là rất quan trọng. Thành công lâu dài chỉ có thể đạt được ở nơi mà tôi cảm thấy thoải mái mà thôi. Bảng xếp hạng trường đại học rõ ràng có thể được xem là một yếu tố định hướng. Tuy vậy, ta phải luôn đặt ra một câu hỏi nghiêm túc cho bảng xếp hạng này: Những tiêu chí nào đã được để ý tới? Trường nào đã tham gia vào khảo sát để làm ra bảng xếp hạng này? Để có thể làm rõ những câu hỏi này, điều đặc biệt quan trọng là phải trả lời được rằng: Điều gì ở một trường đại học là quan trọng nhất với tôi?” 3. Ass. Jur. Nathalie Schröder. Geschäftsführung, GMConsultingspartner “Về cơ bản, tôi ủng hộ việc đánh giá các trường đại học cũng như công khai các đánh giá này. Một hình thức cạnh tranh công khai như vậy sẽ giúp tạo ra động lực thúc đẩy các trường liên tục cải thiện chất lượng giáo dục cũng như cung cấp cho tất cả những người quan tâm một cái nhìn tổng quan về “Tình hình thị trường”. Tuy nhiên, cá nhân tôi không coi việc lựa chọn trường đại học dựa trên xếp hạng là việc nhất định phải làm. Bản thân một trường đại học có thể được đánh giá tương đối thấp – nhưng một ngành học cụ thể nào đó tại trường nhờ vào đội ngũ giảng viên cực kì tận tâm và nội dung học sáng tạo có thể trở thành một “Lựa chọn tuyệt vời” cho các bạn”. 4. Sehnaz Özden, Continental Recruiting Center weltweit, Continental AG “Dĩ nhiên là một bảng xếp hạng trên mọi góc độ đều có thể được coi là kim chỉ nam và cho thấy những điểm quan trọng nhất của các trường đại học. Tuy vậy, mỗi người nên tự quyết định xem họ có thật sự muốn dựa theo các tiêu chí của bảng xếp hạng đó hay không”. 5. Tina Wemer, HR und Recruiting, INVENSITY GmbH “Bạn không nên để mình bị ảnh hưởng bởi thứ hạng của các trường đại học khi chọn trường. Điều thường xảy ra là những người chịu trách nhiệm tuyển dụng nhân sự chưa bao giờ nhìn thấy những trường đại học được nhắm tới từ phía bên trong. Ngược lại, lời khuyên từ bạn bè, gia đình hay từ các bài viết chia sẻ kinh nghiệm từ các diễn đàn trên Internet là cơ sở quan trọng để ra quyết định. Một lựa chọn nữa là tận dụng các sự kiện mang tên “Ngày mở cửa” của chính các trường đại học để có thể trực tiếp có được cái nhìn rõ ràng hơn về công tác giảng dạy tại trường. Suy cho cùng, mỗi sinh viên tương lai nên xem xét kĩ lưỡng xem sở thích của anh ta là gì, liệu anh ta có phải người thích sống tại một thành phố nhất định nào đó không hay liệu cơ hội tiếp xúc thực tế cũng như việc học theo các nhóm nhỏ có quan trọng với anh ta không. Trong trường hợp cuối cùng được nhắc tới ở trên, các trường đại học học khoa học ứng dụng nên được ưu tiên hơn là những trường đại học lớn”. 6. Ulrich Breimann, Human Resources, EMC Deutschland GmbH “Các bảng xếp hạng trường đại học rõ ràng là một tiêu chí tốt khi lựa chọn cơ sở đào tạo. Nhưng ngay cả một tấm bằng loại ưu từ một trường đại học danh tiếng cũng không phải là sự đảm bảo duy nhất cho “công việc mơ ước”. Ngoài việc đào tạo kiến thức chuyên ngành, điều quan trọng hơn là những kĩ năng mềm cần thiết cho việc thực tế hóa những kiến thức đã học và cả những kĩ năng cá nhân mà một ứng viên xin việc có thể tự trang bị cho bản thân. Thế nên, điều quan trọng hàng đầu là nội dung học và các điều kiện hỗ trợ của một ngành học phải phù hợp với người học và người đó có thể tạo ra hiệu quả tối ưu – như vậy anh ta mới có thể thành công trong việc tìm kiếm một công việc phù hợp”. 7. Daniela Petschick, Personal, THOST Projektmanagement für Bauten und Anlagen GmbH “Việc bạn học trường nào không phải là vấn đề cần tranh cãi khi chúng tôi lựa chọn ứng viên. Để đánh giá một ứng viên, chúng tôi lấy các hội thảo, bài giảng mà anh ta đã tham dự cũng như tổ hợp môn mà anh ta đã học làm tiêu chí hàng đầu.” 8. Carlo Retterath, Human Resources Management, Deutsche Post Consult GmbH “Tôi cho rằng các bảng xếp hạng trường đại học là vấn đề khá nan giải, vì rất ít khi chúng ta biết được chúng được tạo ra dựa trên những tiêu chí nào và nhóm đối tượng nào đã được thăm dò để cho ra kết quả như vậy. Nếu đối tượng được hỏi là sinh viên, kết quả cho ra đương nhiên sẽ hoàn toàn khác so với khi hỏi giáo sư hay các công ty. Điều quan trọng hơn cả khi chọn trường nên là ấn tượng cá nhân cũng như cảm giác “tâm can mách bảo”, thay vì lựa chọn một nơi mà bạn sẽ dành nhiều năm cuộc đời của mình ở đó chỉ thuần dựa vào các tỉ lệ phần trăm”. 9. Peter Schürholz, Personalrekrutierung, Lufthansa Technik AG “Ở đây, ta nên xem xét kĩ hơn việc xếp hạng này dựa trên tiêu chí nào và liệu những tiêu chí này có phù hợp với bạn hay không. Theo quan điểm của tôi, ta không nên quá phụ thuộc vào thứ hạng của các trường đại học khi lựa chọn trường cho mình”. 10. Diplom-Wirtschaftsjurist (FH) Marc Seydewitz, Personal, Deutsche Bahn AG – DB International GmbH “Điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các bảng xếp hạng trường đại học không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực tế. Mỗi sinh viên nên làm quen với từ khóa “Mức độ chính xác”. Nhiều trường đại học nhỏ hơn cũng dạy rất tốt”. Trên tư cách là một cựu sinh viên và hiện đang làm trong một công ty về lĩnh vực sản xuất ô tô, mình muốn nói lên vài quan điểm cá nhân về giáo dục Đức và cơ hội việc làm sau này. Đầu tiên, như các bạn đã biết, 14/16 bang của Đức đến thời điểm này vẫn miễn hoàn toàn học phí bậc đại học, kể cả là cho sinh viên nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc, nền giáo dục Đức không thật sự được coi là một mảng trong kinh doanh hay quảng bá đất nước, như giáo dục Anh, Mỹ, Úc hay Canada. Với nền giáo dục như vậy, khi so sánh với các nước kể trên, số lượng học bổng tại Đức sẽ không có nhiều, tiêu chuẩn đầu vào sẽ dễ hơn rất nhiều nhưng tiêu chuẩn đầu ra thì sẽ không dễ chút nào cả. Từ trải nghiệm cá nhân của mình với ngành Elektrotechnik và thông qua tham khảo từ bạn bè học nhiều ngành khác nhau từ khắp nơi trên nước Đức, mình cho rằng, việc bạn học 1 trường đại học bất kì tại Đức, bất kể ngành nào, và có thể ra được trường đã là một thành công lớn rồi. Nếu bạn muốn gia tăng cơ hội xin việc, như các chuyên gia ở trên đã nói, rất nhiều yếu tố được xem xét tới chứ không chỉ đơn giản là bạn học trường nào. Dĩ nhiên, nếu tốt nghiệp một trường có danh tiếng, cơ hội để bạn tạo ra ấn tượng đầu tiên với nhà tuyển dụng giữa hàng loạt các ứng viên khác là tốt hơn. Tuy nhiên, điều đó mới chỉ mang đến cho bạn cơ hội được tham gia vào các vòng phỏng vấn mà thôi. Khi đã tham gia vào các vòng phỏng vấn, yếu tố quyết định xem bạn có được nhận hay không lại là kiến thức cá nhân, các kĩ năng mềm, khả năng xử lý tình huống và đương nhiên, cả ngoại ngữ của bạn nữa. Những thứ này đáng tiếc là chúng ta không thể học quá nhiều từ trường lớp, mà phải va chạm, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài, đặc biệt là trong các môi trường chuyên nghiệp. Vì thế, lời khuyên của mình là: hãy sớm định hướng xem sau này bản thân muốn làm về mảng gì và cố gắng cải thiện các kĩ năng chuyên biệt cho mảng đó cũng như tạo ra cho mình một bản CV đẹp bằng việc đi làm thực tập càng nhiều càng tốt. Để có được các cơ hội thực tập, việc các bạn có thể làm cụ thể đầu việc gì (ví dụ như biết lập trình một vài ngôn ngữ phổ thông, sử dụng tốt Microsoft Office, đặc biệt là Excel,…) và có khả năng ngôn ngữ tốt là rất quan trọng. Dĩ nhiên, các bạn cũng có thể có cơ hội thực hành dựa trên những chương trình liên kết của trường với các công ty, viện nghiên cứu khác hay có thể làm nghiên cứu sinh trong các dự án nghiên cứu của chính trường mà các bạn theo học. Đối với cá nhân mình, những kinh nghiệm đi làm thực tế cũng như các chứng chỉ về việc hoàn thành những mảng kĩ năng chuyên biệt mà công ty nào đó cần sẽ mang đến một ấn tượng còn tốt hơn nhiều so với việc tốt nghiệp một trường đại học đứng hàng đầu trên Hochschulranking. Chúc các bạn sinh viên tương lai thành công trong việc lựa chọn trường đại học cho mình nhé! Nguồn tham khảo: https://www.connecticum.de/karrierefragen/hochschulwahl-frage-1220885336 Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Kobe
Danh từ, trong bất cứ thứ tiếng nào, đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra sự hiện diện cụ thể của sự vật, sự việc. Thiếu đi danh từ, mọi cuộc hội thoại đều không thể nào được hiểu trọn vẹn nữa. Do vậy, khi học một ngoại ngữ mới, ưu tiên hàng đầu của người học đối với việc học từ mới là học danh từ. Để học từ mới cho hiệu quả, trong bài viết này, chúng ta cùng xem xét 3 nhóm danh từ khác nhau được phân chia theo ý nghĩa của chúng trong tiếng Đức: 1. Gattungsnamen Đây là nhóm đầu tiên và cũng là nhóm với số lượng từ nhiều nhất. Nhóm bao gồm những danh từ biểu hiện khái niệm cụ thể trong thực tế, ví dụ như Tisch (cái bàn), Flasche (cái chai), Auto (xe hơi) hay Land (đất nước). Chúng được gọi là Gattungsnamen vì chúng không chỉ đại diện cho một thứ duy nhất, mà là toàn bộ những khái niệm đếm được khác thuộc về nhóm của chúng. Dù có khác nhau về kiểu dáng, màu sắc, chức năng, kích thước mức nào thì chúng ta không thể chối cãi một sự thật là mọi cái bàn trên thế giới đều phải là cái bàn trước đã, và cái chai cũng vậy. Cách tốt nhất để học từ mới thuộc nhóm này là phân chia chúng thành các nhóm khác nhau. Ở đây, ta lại có 3 cách phân nhóm khác nhau: Phân nhóm theo mức độ cụ thể tăng dần: có nghĩa là chúng ta sẽ có các Oberbegriffe (khái niệm tổng quát), trong đó bao gồm các Unterbegriffe (khái niệm cụ thể). Ví dụ: Phân nhóm theo việc kể tên các thành phần của một tổ hợp tổng thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có 1 khái niệm được cấu thành từ các khái niệm nhỏ hơn. Ví dụ: Phân nhóm theo một văn cảnh cụ thể: có nghĩa là chúng ta sẽ có một loạt các khái niệm có liên quan đến văn cảnh mà ta nhắc đến. Ví dụ: Nếu suy nghĩ đến quá trình tiếp thu tiếng Việt, rõ ràng chúng ta không hề ghi nhớ từ mới theo thứ tự bảng chữ cái, mà là theo tư duy phân nhóm như ở trên. Não bộ chúng ta chứa rất nhiều nơ-ron thần kinh và chúng phân bố theo mô hình mạng lưới. Điều đó có nghĩa là, chúng sẽ hoạt động càng tốt khi chúng ta càng tạo ra được nhiều sợi dây liên kết giữa các khái niệm với nhau. Bằng tư duy phân nhóm, việc học từ mới, đặc biệt là danh từ, sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều. Một chú ý nhỏ cho các danh từ thuộc nhóm Gattungsnamen: ở số nhiều, các khái niệm thuộc nhóm này sẽ không cần đến Artikel (quán từ xác định) nếu khái niệm được nói đến là khái niệm chung nhất chứ không phải bất cứ một thành phần cụ thể nào. Ví dụ như câu: “Katzen sind sehr ortsgebunden und ziehen es vor, in ihrer gewohnten Umgebung zu bleiben” (Loài mèo gắn bó rất chặt với địa điểm và thường có xu hướng ưu tiên việc ở trong một không gian mà chúng quen thuộc) rõ ràng nói đến toàn bộ loài mèo chứ không hề nói đến cá thể mèo nào cả. 2. Stoffsubstantive Nhóm danh từ thứ hai là một nhóm nhỏ hơn rất nhiều. Nó bao gồm những danh từ chỉ vật chất cơ bản hay nguyên liệu, ví dụ như Glas (kính), Wasser (nước), Gold (vàng) hay Schnee (tuyết). Điều gây khó khăn cho người học khi sử dụng những danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng thường được sử dụng mà không cần quan tâm đến Genus (cách) hay trong nhiều trường hợp là cả Artikel (quán từ xác định). Ví dụ như câu “etwas ist aus Holz” (cái gì đó làm từ gỗ) không có cả 2 thứ trên, ngay cả khi “aus” là một giới từ thông thường đòi hỏi Dativ (cách 3). Dưới đây là những đặc điểm của các danh từ thuộc nhóm Stoffsubstantive này: Ở số ít, chúng không cần quán từ xác định: Aluminium ist leichter als Stahl (Nhôm nhẹ hơn thép). Ở số ít, chúng không cần đi cùng với cách: Der Palast des Königs ist aus Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính). Ở số ít, chúng đi cùng với cách khi có sự xuất hiện của tính từ: Der Palast des Königs ist aus kugelsicherem Glas (Cung điện của nhà vua được làm từ kính chống đạn). Khái niệm số nhiều của danh từ thuộc nhóm này sẽ chỉ được sử dụng khi các khái niệm cụ thể hơn cùng xuất hiện trong văn cảnh đó: Zum Kochen sollte man am besten pflanzliche Öle wie Olivenöl oder Sonnenblumenöl verwenden (Khi nấu ăn, tốt nhất ta nên sử dụng những loại dầu làm từ thực vật như dầu ô-liu hay dầu hướng dương). Đối với một số danh từ đặc biệt, chúng ta không có khái niệm số nhiều thông thường cho chúng, mà chỉ có khái niệm số nhiều thông qua việc thay đổi bản chất từ, ví dụ như Milch (sữa): Im Supermarkt kann man verschiedene Milchsorten kaufen (Ở siêu thị ta có thể mua rất nhiều chủng loại sữa khác nhau). Thỉnh thoảng thì Gattungsnamen cũng được dùng như là Stoffsubstantive và được dùng tương tự như vậy để nhấn mạnh một tính chất đặc biệt nào đó. Ví dụ như vor Freude (trong niềm vui), aus Angst (do sợ hãi), Liebe ist nur ein Wort (tình yêu chỉ là một từ mà thôi), Erkältung haben (bị cảm lạnh),… 3. Eigennamen Đây là nhóm danh từ cuối cùng và từ mới thuộc nhóm này thường không gây ra quá nhiều khó khăn cho người học. Đúng như tên gọi, các danh từ nhóm này bao gồm tên riêng, ví dụ như họ và tên của một người cụ thể hay tên một công ty, một tập đoàn, một trường đại học. Vì thể hiện các khái niệm riêng biệt như vậy nên các danh từ của nhóm này đương nhiên cũng không cần Artikel (quán từ xác định) nữa. Vậy nên, ví dụ nếu ai đó nói đến khái niệm “ein VW” thì ta cần hiểu, người đó đang đề cập đến khái niệm rút gọn của “một chiếc xe VW” chứ không phải là “tập đoàn VW”. Tuy vậy, trong một vài trường hợp, ta cũng có ngoại lệ với việc Eigennamen thì không cần Artikel. Ví dụ, khi một người nhắc về một người khác với tên riêng cùng quán từ xác định như sau “Heute sehe ich den Kobe nicht” (Hôm nay tôi không nhìn thấy thằng Kobe), họ muốn nhấn mạnh rằng người mà họ nhắc tới là một người quen, hoặc là tạo ra tín hiệu rằng, những người đang nghe cũng biết đến người có tên mà họ nhắc đến, phân biệt người được nhắc đến với những người có cùng tên gọi khác. Ngược lại, việc người nói sử dụng quán từ không xác định như là “Da ist ein Kobe am Telefon!” (có một ông nào đó tên Kobe đang ở bên kia đầu dây nè!) thể hiện cho người nghe rằng họ không biết ông tên Kobe này là ai. Ngoài ra, còn một trường hợp ngoại lệ khác với các danh từ thuộc nhóm này, đó là chúng ta có thể dùng tên riêng thêm đuôi “s” để tạo ra tính chất sở hữu tương tự như khi sử dụng Genitiv (cách 2), ví dụ như “Kobes Haus” (nhà của Kobe). Tuy vậy, cách nói đơn giản với giới từ “von” (das Haus von Kobe) vẫn được dùng nhiều hơn và cũng dễ hiểu hơn. Tác giả: Kobe Minh họa: Diệu Bích
Khi nói về khả năng sử dụng ngoại ngữ một cách thông thạo, ta đang nói tới khả năng chọn đúng ngữ liệu để sử dụng trong từng trường hợp cụ thể. Để đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất thì những ngữ liệu này không những phải đúng, mà còn cần phù hợp, hay nói cách khác là được phép sử dụng. Khi giao tiếp với một người bản ngữ, ngoài nội dung cuộc nói chuyện, họ đương nhiên cũng sẽ cực kì để ý tới việc nội dung đó được thể hiện như thế nào (những từ, cụm từ gì đã được sử dụng, những biểu hiện cơ thể của người nói trông ra sao,…). Lẽ dĩ nhiên, việc giao tiếp bằng một ngoại ngữ không đơn giản là việc kết hợp một cách “freestyle” các từ mà chúng ta đã biết với nhau, điểm thêm một chút ngữ pháp và cách phát âm đúng (giống như mô hình Wohnwagen mà mình đã trình bày ở một bài viết khác). Để giao tiếp “đúng”, chúng ta cần luôn luôn chọn đúng ngữ liệu! Như đã trình bày trong nhiều bài viết khác, trong nhiều trường hợp, sẽ là rất khó, thậm chí không thể nào, nếu bạn muốn dịch nghĩa một cách hoàn chỉnh một khái niệm từ ngôn ngữ mẹ đẻ sang ngôn ngữ thứ hai. Mỗi ngôn ngữ lại có những quy tắc riêng của chúng, ví dụ như ở việc sắp xếp các từ trong câu. Ngoài ra, điều chúng ta cũng khá hay gặp là việc một tổ hợp từ nhất định đi cạnh nhau để phục vụ cho việc đưa ra một thông điệp nào đó là rất đặc thù. Khi thiếu đi sự tương đồng giữa việc chuyển đổi giữa hai ngôn ngữ, thông điệp mà ta muốn truyền tải sẽ bị bóp méo, thậm chí trở nên hoàn toàn sai. Một ví dụ cho việc này đó chính là việc cụm từ dùng để hỏi thăm sức khỏe trong tiếng Anh “How are you?” nếu chuyển đổi một cách máy móc sang tiếng Đức sẽ trở thành “Wie bist du?” và đương nhiên là không còn mang ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Ngoài ví dụ trên, sau đây, chúng ta cùng tham khảo một vài lỗi sai khi sử dụng tiếng Đức bằng cách chuyển đổi máy móc giữa các ngôn ngữ khác nhau. Nach zwei Tagen ist das Essen leider kaputt. Ich habe eine Entscheidung gemacht. Nach dem Essen wasche ich mir die Zähne. Ở ví dụ đầu tiên, nếu xuất phát từ khái niệm tiếng Việt là “thức ăn bị hỏng”, chúng ta sẽ dễ dàng mắc lỗi như trên. Thay vào đó, “Essen” thì chỉ có thể trở nên “schlecht” mà thôi. Tương tự, nếu xuất phát từ khái niệm tiếng Anh “to make a decision”, ta sẽ tiếp tục mắc lỗi, bởi vì trong tiếng Đức, ta chỉ có “Entscheidung treffen”. Cuối cùng, lỗi sai ở ví dụ thứ ba thường sẽ hay gặp ở những người nói tiếng Tây Ban Nha với khái niệm “lavarse los dientes”, trong khi đó tiếng Đức chỉ có khái niệm “Zähne putzen” thôi. Thông qua những ví dụ này, mình không hề muốn nói rằng việc mắc lỗi sai khi sử dụng một ngoại ngữ là việc gì đó rất đáng buồn cười. Trên thực tế, việc mắc lỗi sai là một phần tất yếu của mọi quá trình học tập và chỉ có cải thiện từ các lỗi sai, chúng ta mới có thể tiến bộ và hoàn thiện hơn. Đương nhiên, nhiều người học ngoại ngữ không chỉ muốn dừng lại ở mức độ khiến người khác hiểu, họ thực sự muốn sử dụng ngôn ngữ đó ở trình độ cao nhất có thể. Muốn như vậy, họ cần phải học từ các lỗi sai của mình và cố gắng học từ và các khái niệm mới theo cụm, thay vì nghĩ ra những cụm từ dựa trên hiểu biết cá nhân của mình, bởi vì việc lựa chọn cách diễn đạt chuẩn xác cho một tình huống cụ thể sẽ luôn là chỉ dấu rõ ràng cho khả năng sử dụng ngoại ngữ đó ở trình độ cao. Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Trong bối cảnh virus Corona với các biến chủng khác nhau vẫn đang tiếp tục hoành hành tại Việt Nam, việc các cơ sở giáo dục phải tạm thời đóng cửa và cố gắng duy trì hoạt động bằng hình thức dạy online đang ngày càng phổ biến. Với tư cách là một người đã dạy online một thời gian khá dài, mình muốn mang đến một vài góc nhìn cá nhân như sau: Đầu tiên, mình muốn nhấn mạnh một điều: mình dạy online không phải vì dịch. Chuyện này quá dễ hiểu, mình ở Đức và hầu hết các bạn học viên đều còn ở Việt Nam, không dạy online chắc mình bay về Việt Nam mỗi cuối tuần quá 😀 Tuy dạy online đại bộ phận thời gian, nhưng thật ra mình đã bắt đầu sự nghiệp dạy tiếng Đức ở một lớp học offline nhỏ tại Hà Nội. Cảm giác đầu tiên khi phải tập cách truyền đạt kiến thức thông qua màn hình máy tính rõ ràng là không được thoải mái. Nó cũng giống như khi yêu xa vậy thôi. Dù công nghệ có kéo gần khoảng cách của chúng ta mức nào thì nó cũng không thể thay thế được cảm giác mặt đối mặt hay những hoạt động cần đến sự tương tác trực tiếp khác. Nhưng cũng lại tương tự khi yêu xa, dù cảm giác có thể không được chân thực bằng, nhưng dĩ nhiên là chả có đôi nào vì thế mà ngừng gọi điện thoại cho nhau cả. Trừ khi mình không còn thích dạy học nữa. Điều này thì chắc là không xảy ra rồi, và thế là mình tiếp tục dạy online. Rồi thì mình kéo thêm người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba tham gia dạy cùng. Và cứ thế, chúng mình đã từ lúc nào trở thành một đội ngũ dạy tiếng Đức online. Dạy bằng hình thức nào cũng vậy, sẽ luôn có cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Thiếu đi tương tác trực tiếp và những hoạt động kể trên, nhưng nhờ có các phần mềm hỗ trợ mà một đứa không biết vẽ và chữ cũng không lấy gì làm đẹp như mình bỗng dưng cảm thấy tự tin hẳn, cảm giác cứ như là dùng bảng thông minh vậy. Hơn thế nữa, dạy online giúp mình tiếp cận với những học viên từ khắp nơi trên thế giới, những người mà nếu mình mở lớp học tại cố định một địa điểm thì có lẽ sẽ rất khó để gặp được. Mình đánh giá rất cao điều này, vì với mình, dạy học không chỉ là một nghề để kiếm tiền, nó còn giúp mình khắc phục một vấn đề cố hữu mà mình gặp phải từ bé: sống khép kín và ngại tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau bóng rổ, dạy học chính là cây cầu thứ hai đưa mình đến với rất nhiều người mà trước đây mình không nghĩ mình có ngày sẽ quen và kết bạn với họ. Tuy ngoài dự tính nhưng giờ nó đã trở thành một lý do quan trọng khiến mình muốn tiếp tục theo đuổi việc dạy học, dù ngay thời điểm này thì việc làm song song khiến mình cảm thấy hơi quá sức. Tuy nhiên, dù là như vậy, khi thật sự có thể dành toàn bộ thời gian cho dạy học, mình chắc chắn sẽ ưu tiên việc dạy trực tiếp hơn. Thì rõ ràng mà, ai lại thích yêu đương qua màn hình máy tính bao giờ 😀 Vậy nhưng, mình không hề và cũng không có ý định phán xét việc yêu xa hay yêu gần của các cặp đôi. Ngày trước, hồi mình và vợ mình còn yêu xa, nhiều người cũng hay hỏi han việc yêu xa kiểu gì vậy. Thậm chí, không ít người còn cho rằng hai đứa này kiểu gì cũng chia tay. Đấy thế nhưng mà bọn mình có chia tay đâu, bọn mình còn đang đi du lịch với nhau trực tiếp đây này 😀 Dạy học cũng vậy. Dù là online hay offline, điểm mấu chốt vẫn là con người. Điều kiện cần là người dạy đủ kiến thức, đủ tâm huyết và đủ thời gian để có thể mang đến cho người học những gì tốt nhất. Điều kiện đủ là người học xác định rõ mục tiêu, hết lòng theo đuổi mục tiêu đó và hợp tác hết mình với người dạy. Có được điều đó, thì hình thức dạy học là gì, liệu có còn quá quan trọng? Lý do mình viết bài này không phải để cổ súy cho hình thức học online, dù chính bọn mình đang hoạt động với hình thức này. Mình hiểu tất cả những điểm yếu của hình thức này và cũng muốn trực tiếp đứng lớp nếu cơ hội đến. Thế nhưng, mình tôn trọng tất cả những người dạy học, dù dưới hình thức nào. Không bàn đến hay dở và đúng sai, chỉ riêng việc họ không từ bỏ khi khó khăn ập tới đã là điều làm mình cảm thấy khâm phục. Ngoài ra, như đã nói ở trên, điểm mấu chốt không phải hình thức dạy, mà với mình là con người, cả người dạy lẫn người học. Cũng giống như khi chúng ta đổ lỗi cho công nghệ đã khiến con em chúng ta trở nên lười vận động hay lười giao tiếp như thế nào, vấn đề vốn dĩ không nằm ở công nghệ, thứ sẽ luôn thay đổi theo thời gian và tạo ra những thói quen mới. Vấn đề về cơ bản, luôn nằm ở phía con người, điều khá khó khăn để nhận ra và cũng càng khó hơn để chấp nhận. Vì thế, các bạn thân mến, hãy bắt đầu học khi các bạn muốn học, sẵn sàng hết mình với việc học và khi các bạn cảm thấy đã tìm được một người dạy đủ khiến bạn tin tưởng. Nếu tất cả những điều đó đã có đủ và chỉ thị 16 vẫn còn hiệu lực, vậy thì hãy học online đi nhé! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Trong ngôn ngữ học, việc hình thành một ý tưởng câu dựa trên 2 yếu tố: những thứ mà ta đã biết (Thema) và những thông tin, ý kiến mới mà ta thêm vào (Rhema). “Thema” của một câu bao gồm những thông tin mà tất cả chúng ta đều biết, đã được nhắc đến phía trước hoặc được làm rõ thông qua văn cảnh khi viết. Do vậy, chúng có vai trò định vị cho câu, để làm rõ và khiến người đọc hiểu rằng thông tin chính xuất hiện trong điều kiện, hoàn cảnh như thế nào. “Rhema”, ngược lại, chính là linh hồn của câu. Điều này thật ra khá dễ hiểu vì chúng ta không thể viết một câu mà không mang lại bất kì thông tin nào cho người đọc cả. Chúng ta cùng tham khảo một vài ví dụ sau đây: In Hanoi (Thema) ist es seit Tagen sehr warm (Rhema). Ich (Thema) habe die Prüfung sehr gut bestanden (Rhema). Es war einmal ein König (Rhema). Er (Thema) hatte drei Töchter (Rhema). Để trình bày một luận điểm hay một vấn đề, chúng ta có một vài cấu trúc khác nhau sử dụng Thema & Rhema (hay còn gọi là Thema-Rhema-Struktur hay Informationsstruktur). 1. Lineare Thema-Rhema-Struktur Cấu trúc này là cấu trúc cơ bản nhất và thường được dùng trong các cuộc hội thoại thân mật. Ở đây, một Rhema sẽ chịu trách nhiệm mở đầu vấn đề bằng câu đầu tiên. Sau đó Rhema này sẽ đóng vai trò là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Đây là cấu trúc hay gặp trong các cuộc hội thoại “Smalltalk” hay trong các văn bản không đặt nặng tính hình thức. Peter ist ziemlich erkältet (Rhema). Seine Erkältung (Thema 1) ist aber nicht bedenklich (Rhema 1) Marie ist die Freundin von Renate (Rhema). Renate (Thema 1) ist die Kollegin meiner Mutter (Rhema 1). Meine Mutter (Thema 2) heißt auch Renate (Rhema 2). Dabei (Thema 3) ist Renate kein häufiger Name (Rhema 3),… 2. Durchlaufendes Thema Cấu trúc này đưa ra nhiều Rhema khác nhau cho cùng một Thema. Nói cách khác, Thema của câu đầu tiên cũng chính là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Do đó, nó phù hợp khi bạn muốn miêu tả về một sự việc hay vấn đề nào đó. Một công cụ hữu ích khi sử dụng cấu trúc này để viết chính là việc sử dụng MindMap. Peter (Thema) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Er (Thema) kann trotzdem zur Arbeit gehen (Rhema 2). Kupfer (Thema) ist ein chemisches Element mit dem Elementsymbol “Cu” und der Ordnungszahl 29 (Rhema 1). Es (Thema) ist ein Übergangsmetall (Rhema 2), im Periodensystem steht es (Thema) in der 4. Periode und der 1. Nebengruppe oder Kupfergruppe (Rhema 3). Một trường hợp đặc biệt có thể kể tới là “Progression mit abgeleiteten Themen”. Ở đây, các Rhema khác nhau của 1 Thema sẽ được sắp xếp và đánh dấu rõ ràng để tiện cho việc theo dõi. Ví dụ cụ thể là phần mục lục của tất cả các cuốn sách. 3. Gespaltenes Rhema Ở hình thức này, trái ngược với “durchlaufendes Thema”, một Rhema sẽ được chia thành nhiều phần nhỏ và được xem xét trong các Thema khác nhau. Thông qua việc phân tích trong các Thema đó, các phần nhỏ của Rhema sẽ được xem xét một cách kĩ càng và đa chiều, đồng thời tạo nên một Rhema tổng hợp có sức thuyết phục hơn. Cấu trúc này được sử dụng trong các cuộc tranh luận hay phân tích mặt lợi – mặt hại của một vấn đề. Die Sprachwissenschaftliche Forschung hat sich bei blinden Kindern vor allem mit den Auswirkungen der Behinderung auf Themenwahl und nonverbales Verhalten konzentriert (Rhema). Die wenigen Untersuchungen lassen vermuten, dass in Gesprächen mit blinden Kindern Themen (Thema 1) überwiegen, die sich eher auf das Kind, als auf dessen Umgebung beziehen. In vielen Fällen wird das nonverbale Verhalten (Thema 2) durch Blindismen geprägt. 4. Thematischer Sprung Ở hình thức này, Rhema và Thema của các câu liên tiếp sẽ hoàn toàn khác nhau do những thông tin được đánh giá là “ai cũng hiểu” sẽ được bỏ qua. Do vậy, hình thức này sẽ chỉ thích hợp cho việc trao đổi thông tin giữa những người có cùng chuyên môn về một lĩnh vực nào đó. Peter (Thema 1) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Die Arbeitsstelle (Thema 2) ist schlecht beheizt (Rhema 2). Tác giả: Kobe
Đối với tất cả những bạn đã sang và sống một thời gian ở nước ngoài, sau đó đã quen và hiểu được văn hóa, cuộc sống, con người bản địa, chắc hẳn các bạn đều cảm thấy rất tuyệt. Bạn có những người bạn bản địa và tham gia vào các hoạt động thường nhật một cách tự tin bằng tiếng bản địa, như mua sắm, đặt đồ ăn hay làm việc. Bạn không hề còn cảm thấy bạn là một “người ngoại đạo” như những tháng đầu tiên ở đất nước mới nữa. Thật sự là bạn sẽ cảm thấy cực kì ổn cho đến khi một người bạn đến và hỏi bạn rằng: “Cậu sử dụng thứ tiếng này trôi chảy chứ?”. Chắc hẳn bạn sẽ khựng lại một giây và tự hỏi bản thân rằng: “Mình làm được điều đó chưa nhỉ?”. Rất khó để có một thước đo tiêu chuẩn định nghĩa rằng, một người có thực sự trôi chảy với một thứ tiếng hay không. Nhiều người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn đã thuộc nằm lòng tất cả các từ có trong từ điển, có thể diễn đạt 100% tất cả những gì bản thân muốn mà không mắc bất kì lỗi sai nào dù là nhỏ nhất hay có thể nói mà không cần tốn chút thời gian nào suy nghĩ để tìm ra từ cần thiết. Cũng không ít người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn vượt qua những kì thi chuẩn hóa với số điểm cao chót vót. Nhưng nếu đó là thước đo của việc sử dụng trôi chảy một ngoại ngữ, bạn có chắc là bạn có thể làm được điều đó với tiếng mẹ đẻ của bạn hay không? Nói ví dụ, rõ ràng chúng ta cực kì trôi chảy tiếng Việt, nhưng chúng ta có thể nói mà không cần suy nghĩ chọn từ hay nói mà không mắc bất kì lỗi nhỏ nào hay không? Chúng ta trôi chảy tiếng Việt và chúng ta khẳng định bản thân sẽ vượt qua kì thi C2 tiếng Việt một cách dễ dàng chứ? Có lẽ là chưa chắc… Thay vào đó, chúng ta thường cho rằng, việc trôi chảy một ngoại ngữ gắn liền với tốc độ nói, khả năng diễn đạt đơn giản dễ hiểu và đương nhiên là liền mạch nữa. Quan trọng không kém là ta có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau và với nhiều đối tượng khác nhau. Thế tóm lại, thật ra ta nên dựa vào điều gì để đánh giá về mức độ trôi chảy khi sử dụng một ngôn ngữ? Sau đây, mình sẽ giới thiệu tới các bạn 7 dấu hiệu cho thấy bạn đang sử dụng ngoại ngữ một cách trôi chảy. 1. Người bản xứ không còn thay đổi cách họ nói chuyện với bạn Cũng tương tự như khi chúng ta là người Việt và nói chuyện với một người bạn châu Âu đang học tiếng Việt. Rõ ràng, chúng ta nhận ra rất nhanh người đối diện có thật sự lưu loát tiếng Việt hay không. Nếu không, xu hướng của chúng ta sẽ là nói chậm hẳn lại để người đối diện có thể hiểu được và theo kịp nội dung cuộc nói chuyện. Điều tương tự sẽ xảy ra khi chúng ta sang một nước khác. Bạn đơn giản là không thể che mắt một người bạn xứ về trình độ tiếng của mình nếu bạn và họ nói chuyện tối thiểu là 5 phút. Vì vậy, nếu cuộc nói chuyện kéo dài và bạn nhận ra, người bản xứ không hề nói chậm lại, đó là chỉ dấu đầu tiên cho thấy: bạn đang sử dụng ngôn ngữ của họ trôi chảy rồi đấy! 2. Bạn có thể nghe lỏm được các cuộc hội thoại Một dấu hiệu khác là khi bạn đi đến quán Cafe hay ngồi ăn trong một nhà hàng, lắng nghe những người xung quanh nói chuyện với nhau và cảm thấy đó không còn chỉ là tiếng ồn như động cơ máy bay nữa. Bạn thật sự có thể hiểu được họ đang nói về chủ đề gì cũng như cảm xúc của họ ra sao khi nói về chủ đề đó. Đây là một bước tiến cực kì lớn, bởi vì tốc độ nói chuyện của 2 người bản xứ với nhau thường rất nhanh và họ cũng sử dụng nhiều những từ ngữ không chính thống hơn. Ngoài ra, bạn có thể hiểu người khác nói gì mà không cần nhìn vào mắt hay chuyển động cơ thể của họ để phán đoán ý tứ. Đây là một trong những chỉ dấu mình cho là đáng giá nhất. 3. Bạn khám phá ra một thế giới mới của sự hài hước Chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng: ngay cả việc trở nên hài hước bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình cũng là một điều cực kì khó khăn. Ta cần phải biết rất nhiều từ lóng, hiểu rất sâu về ngôn ngữ, về văn hóa, phong tục tập quán hay nắm được các trào lưu thịnh hành,… Và bạn hãy thử tưởng tượng, bạn làm được điều đó với một ngôn ngữ khác! Bạn xem Standup-Comedy và không cần bạn bè giải thích lại. Bạn có thể đi chơi cùng bạn bè người bản xứ và có thể nói gì đó khiến tất cả cùng cười. Nếu làm được điều này, bạn hoàn toàn có thể tự hào về bản thân cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ của mình. 4. Bạn không còn sợ đi khám nữa Khi bạn còn chưa tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình, chắc hẳn suy nghĩ về việc đi gặp bác sĩ là một trong những điều khiến bạn sợ nhất. Không hẳn là bạn sợ đau, mà là bạn sợ bạn không thể diễn tả cho bác sĩ hiểu bạn đang gặp vấn đề gì. Hoặc bạn sợ bác sĩ giải thích cho bạn vài điều và bạn không hiểu nổi. Hoặc là vì bất đồng ngôn ngữ mà bác sĩ kê nhầm thuốc cho bạn. Nếu đến một ngày, bạn không còn sợ điều này nữa, đó cũng là một dấu hiệu cho thấy bạn đang dần trở nên trôi chảy hơn với ngoại ngữ. 5. Bạn biết cách sử dụng “bad words” Những người bản xứ thường cảm thấy khá hào hứng mỗi khi họ có cơ hội dạy cho các bạn nước ngoài về những từ bậy bạ ở nước mình (thừa nhận đi, các bạn cũng thấy thế với tiếng Việt đúng không?). Ban đầu, dĩ nhiên bạn cảm thấy khá lạ lẫm. Nhưng dần dần, bạn nhận ra những văn cảnh cụ thể để sử dụng những từ này mà không gây phản cảm, mà trái lại, còn làm người nghe cảm thấy hứng thú với câu chuyện của bạn hơn. Nếu làm được điều này, ngay cả khi là một người không bao giờ chửi bới, bạn vẫn có thể thể hiện rằng, bạn đang trên con đường trở nên trôi chảy với ngoại ngữ mà bạn sử dụng. 6. Bạn nắm được nội dung mà không quan tâm đến ngôn ngữ Mình nghĩ điều này chắc chắn là không thể khi các bạn mới bắt đầu với một ngoại ngữ. Nhưng nếu bây giờ bạn đang ngồi đâu đó, đọc một bài báo hay nghe một bản tin và hiểu được nội dung của nó. Sau đó, bạn suy nghĩ lại và chợt nhận ra, bạn không biết rằng nội dung bạn vừa gặp được truyền tải bằng thứ tiếng nào. Đó là một khoảnh khắc tuyệt vời và điều đó chứng minh rằng, bạn bắt đầu có khả năng chuyển đổi linh hoạt giữa tiếng mẹ đẻ và một ngôn ngữ khác, điều mà sẽ không chỉ giúp bạn cho thứ tiếng đó, mà còn cho cả những ngôn ngữ mới mà bạn sẽ học sau này. 7. Bạn biết mình vừa mắc lỗi gì Tất cả những người, dù đã sử dụng thành thạo một ngôn ngữ cỡ nào, họ vẫn sẽ mắc lỗi. Điểm khác biệt so với những người mới học là ở chỗ, họ biết rõ họ mắc lỗi gì và như thế nào. Và nếu là một người trôi chảy với thứ tiếng đó, bạn sẽ ngày càng sửa lỗi của bản thân thường xuyên hơn và thậm chí là ngay lập tức. Vì thế, hãy tự hào nếu bạn có thể làm được điều này, vì đây là kĩ năng cách rất rất xa một người mới học ngôn ngữ hay thậm chí đang ở trình độ trung cấp của ngôn ngữ đó. Tác giả: Kobe
Folge 1 Modalpartikel (tiểu từ tình thái) là một trong những nét đặc trưng nhất của ngôn ngữ Đức. Rất nhiều ngôn ngữ khác không hề có loại từ này, điển hình có thể kể đến là tiếng Anh. Đây là những từ đệm, chỉ được sử dụng trong ngôn ngữ nói chuyện hàng ngày và không gây ảnh hưởng đến cấu trúc cũng như ngữ pháp của câu (có nghĩa là thêm chúng vào hay bỏ chúng đi thì câu không hề sai hay thay đổi ý nghĩa). Chúng có tác dụng mang đến cho người nghe sắc thái, cảm xúc của người nói, bên cạnh thông tin chính. Vì lý do này, sẽ rất khó để có thể dịch hoàn chỉnh một Modalpartikel sang một thứ tiếng khác. Trong bài viết dưới đây, mình sẽ cố gắng giải thích các Modalpartikel trong tiếng Đức một cách dễ hiểu nhất có thể. 1. doch Ngoài chức năng là một Konjunktion (liên từ), khi được sử dụng như Modalpartikel, “doch” có chức năng thể hiện sự ngạc nhiên của người nói, khi người đối diện không biết một điều gì đó. Bsp. Ich habe die Hausaufgaben doch schon gemacht = Ich dachte, dass du weißt, dass ich die Hausaufgaben schon gemacht habe. Ngoài ra, nếu được sử dụng ở Imperativ (mệnh lệnh thức), “doch” sẽ khiến cho câu mệnh lệnh trở nên lịch sự hơn và bớt tính chất “ra lệnh”. Bsp. Setz dich doch hin! nghe sẽ lịch sự hơn là Setz dich hin! 2. ja Ngoài ý nghĩa đơn giản nhất là khẳng định, xác nhận một sự việc, khi được sử dụng như Modalpartikel, “ja” giúp người nói thể hiện với người nghe rằng, họ đang nói đến một sự việc mà có thể người nghe đã biết rồi. Bsp. Ich habe die Hausaufgaben ja schon gemacht = Ich bin mir ziemlich sicher, dass du weißt, dass ich die Hausaufgaben schon gemacht habe. Ngoài ra, “ja” cũng thể hiện sự bất ngờ (cả tiêu cực lẫn tích cực) của người nói về một tình huống cụ thể. Bsp. Das ist ja cool! Das ist ja schrecklich! = Das ist besonders cool/schrecklich. Khi được sử dụng ở Imperativ, “ja” có tác dụng làm mạnh thông điệp được truyền tải. Bsp. Mach das ja nicht! = Es wird etwas Schlechtes passieren, wenn du das machst. 3. denn Ngoài việc được dùng như một liên từ để kết nối 2 câu chính, khi được sử dụng như Modalpartikel, “denn” giúp người nói thể hiện sự hứng thú đặc biệt (chỉ dùng trong câu hỏi) Bsp. Wie heißt du denn? = Ich weiß wirklich nicht, wie du heißt, und möchte es wissen. 4. halt Bằng việc sử dụng “halt”, người nói muốn thể hiện rằng điều gì đó là như vậy và ta không thể thay đổi được nó. Vì vậy, ta thường thấy “halt” xuất hiện kèm với những câu mang tính định kiến (Klischees). Bsp. Das ist halt so! = Du musst akzeptieren, dass das so ist. Bsp. So sind die Männer halt = Ich denke, dass jeder weiß, dass Männer so sind, und ich kann daran nichts ändern. 5. eben Bằng việc sử dụng “eben”, người nói muốn thể hiện rằng họ đang phải làm một điều gì đó mà họ không thực sự muốn làm. Bsp. Ok, dann warte ich eben = Ich habe keine Lust zu warten, aber ich mache es nur für dich. Trong nhiều trường hợp, “eben” cũng được dùng để thay thế cho “halt”. Bsp. Sie ist eben nicht so motiviert = So ist das und ich kann das nicht ändern. 6. eh Bằng việc sử dụng “eh”, người nói muốn thể hiện rằng họ rất chắc chắn về một chuyện sắp xảy ra. Bsp. Er kommt eh zu spät = Er ist schon oft zu spät gekommen. Daher bin ich mir sicher, dass es heute genauso sein wird. Ngoài ra, người nói cũng dùng “eh” để thể hiện tầm quan trọng của việc làm một thứ gì đó. Tuy vậy, tình hình đã thay đổi và việc đó không còn quan trọng nữa. Bsp. Jetzt können wir eh nicht mehr gewinnen = Ich wollte etwas machen, damit wir gewinnen. Aber in der neuen Situation wird das auch nicht mehr helfen. 7. mal “mal” chỉ được sử dụng khi yêu cầu hoặc cầu xin ai đó. Người nói thông qua việc sử dụng “mal” thể hiện rằng tự họ không thể làm được điều gì đó ngay lúc này. Bsp. Mach mal bitte die Wohnung sauber! = Ich habe gerade keine Zeit, die Wohnung sauber zu machen. Kannst du es bitte machen? “mal” cũng được sử dụng khi người nói muốn nhắc nhở người nghe rằng họ đã nhắc người đó về một việc rồi nhưng họ vẫn chưa làm. Bsp. Kannst du mal aufstehen? = Ich warte schon länger auf dich. “mal” cũng giúp cho yêu cầu từ người nói trở nên thân thiện hơn. Bsp. Mach mal die Musik aus! sẽ thân thiện hơn là Mach die Musik aus! 8. gar “gar” chỉ có thể dùng chung với từ phủ định (“nicht” hoặc “kein”). Tương tự như “wirklich” hay “überhaupt”, thể hiện mức độ tuyệt đối của một sự việc. Bsp. Ich habe gar keine Zeit = Ich habe wirklich keine Zeit, nicht mal eine Sekunde. Tác giả: Kobe
Tính đến thời điểm hiện tại, 39,3% dân số Đức đã tiêm trọn vẹn 2 mũi và 56,8% đã tiêm ít nhất 1 mũi vaccine ngừa virus Corona (nguồn: zdf.de và Robert-Koch-Institut). Dự kiến đến cuối năm 2021, toàn bộ nước Đức sẽ được tiêm chủng xong và nếu không có gì thay đổi, sẽ chính thức vượt qua đại dịch này. Ngay từ thời điểm này, các biện pháp phòng dịch đã được nới lỏng rất nhiều và cuộc sống bình thường đã trở lại ở nhiều nơi. Điều đó đồng nghĩa với việc, các cơ hội việc làm tại Đức đã, đang và sẽ quay trở lại và làm nóng trở lại thị trường việc làm vốn nguội lạnh do bùng nổ dịch bệnh từ đầu năm 2020. Trong một nghiên cứu khoa học mới được thực hiện gần đây bởi Viện nghiên cứu liên bang về đào tạo nghề (BIBB) và Viện nghiên cứu thị trường việc làm và nghề nghiệp (IAB), một số nhóm ngành nhất định tại Đức cho đến năm 2040 sẽ thiếu nhân lực trầm trọng. Dưới đây, chúng ta cùng tìm hiểu kĩ hơn về nghiên cứu này. Trước tiên là một tin tốt: Trong một nghiên cứu khác liên quan đến sự thay đổi của thị trường việc làm sau ảnh hưởng của đại dịch Corona, các chuyên gia đã khẳng định nền kinh tế Đức sẽ hoàn toàn hồi phục vào năm 2023. Điều đó có nghĩa là, nếu bạn hoàn thành chương trình đào tạo nghề từ thời điểm hiện tại trở đi, sẽ không có quá nhiều khác biệt về tiêu chuẩn so với một người đã hoàn thành chương trình tương tự trước đại dịch. Tuy nhiên, tin xấu là: Với cùng điều kiện tương tự, những người đi làm sau đại dịch sẽ phải làm khối lượng công việc tương đối nhiều hơn với mức đãi ngộ về lương có thể giảm đi đôi chút. Điều này sẽ được cải thiện dần sau khi nền kinh tế khôi phục và tăng trưởng trở lại. Nhóm ngành nào sẽ có nhiều cơ hội nhất? Dù là trước hay sau đại dịch, nhóm ngành liên quan đến chăm sóc sức khỏe vẫn luôn là nhóm ngành thiếu nhân lực trầm trọng nhất tại Đức (trong bài viết này, mình bỏ qua nhóm ngành xếp hạng 1 là nhóm quản lý và vận hành doanh nghiệp, nhóm ngành đòi hỏi lao động trình độ cao và vốn tiếng Đức cực tốt). Nhóm ngành này bao gồm điều dưỡng viên, y tá, chăm sóc người già,… và là nhóm ngành đầu tiên mà Đức hợp tác chính thức với Việt Nam để đưa lao động sang Đức, điều này không có gì mới mẻ. Tuy nhiên, số lượng lao động mà nước Đức cần cho nhóm ngành này trong vòng 20 năm tiếp theo là một con số cao đáng ngạc nhiên. Cụ thể, nước Đức sẽ thiếu khoảng 3,4 triệu lao động liên quan đến chăm sóc sức khỏe vào năm 2021 và con số này sẽ tăng lên đến 3,7 triệu vào năm 2040. Các vị trí tiếp theo thuộc về nhóm ngành bán hàng, nhóm ngành liên quan giáo dục và chăm sóc trẻ em và nhóm ngành liên quan giao thông và vận chuyển hàng hóa với mức thiếu hụt nhân lực vào năm 2040 lần lượt là 2,7 triệu, 2,6 triệu và 2,5 triệu lao động. Nhóm ngành nào sẽ tiếp tục duy trì độ phổ biến? Dù là trước đại dịch với cuộc cách mạng kĩ thuật số hay sau đại dịch với nhu cầu gia tăng mức độ sử dụng công nghệ đối với hầu hết mọi hoạt động trong cuộc sống, nhóm ngành liên quan đến IT vẫn luôn duy trì vị thế của mình. Dù là thông qua việc học đại học hay học nghề, nếu bạn có khả năng học toán và biết về lập trình, bạn sẽ luôn tìm được chỗ đứng trong thị trường việc làm tại Đức. Một số chương trình học nghề dành cho những bạn muốn tìm kiếm cơ hội tại Đức có thể kể tới như: Fachinformatiker, IT-System-Elektroniker, Informatikkaufmann/-frau, IT-System-Kaufmann/-frau*. Cơ hội cho các bạn tới từ Việt Nam Theo nghiên cứu, tổng số lao động mà nước Đức thiếu sẽ đạt đỉnh vào năm 2025 và sẽ giảm dần vào các năm tiếp theo. Tuy vậy, với con số lao động thiếu luôn duy trì ở mức trên 40 triệu và tiêu chuẩn đầu vào cho việc đào tạo nghề (đặc biệt tiêu chuẩn về tiếng Đức) vẫn tương đối khó, số lượng lao động gia nhập thị trường mỗi năm không quá cao. Do vậy, nước Đức trong những năm tiếp theo vẫn tiếp tục là thị trường tiềm năng cho lao động nước ngoài, đặc biệt là lao động tới từ Việt Nam. Ngoài những nhóm ngành được nhắc tới phía trên, cơ hội vẫn luôn luôn có đối với những nhóm ngành khác. Điều quan trọng không phải nhóm ngành gì, mà liệu bạn có thật sự thích thú ngành đó hay không và liệu tiếng Đức của bạn có đủ tốt để hòa nhập vào môi trường làm việc và cuộc sống thường nhật tại Đức hay không. Khác với môi trường khoa học tại các trường đại học, các cơ sở học nghề Đức hầu như không sử dụng tiếng Anh và do đó, việc sử dụng tốt tiếng Đức là một điều bắt buộc, bất kể các bạn sở hữu bằng tiếng Đức trình độ nào. Do vậy, hãy tập thói quen học tiếng Đức để có thể tồn tại ở Đức, thay vì tìm mọi cách đối phó với các kì thi nhé các bạn! *Giải thích một số cụm từ đã sử dụng: Fachinformatiker: Khác với Informatiker (người tốt nghiệp đại học ngành IT), Fachinformatiker chỉ được học chuyên biệt về một số mảng nhỏ nhất định. Thông thường, công việc của một Fachinformatiker là lên kế hoạch, điều chỉnh, quản lý và phân tích các hệ thống IT. IT-System-Elektroniker: Đây là những người được đào tạo để bảo trì và cài đặt các hệ thống công nghệ thông tin. Trong trường hợp cần thiết, họ cũng là người chịu trách nhiệm sửa chữa một số lỗi hệ thống tại chỗ ở các công ty. Informatikkaufmann/-frau: Đây là những người nghiên cứu thiết lập giải pháp liên quan đến công nghệ thông tin và liên hệ trực tiếp với các đối tác sản xuất phần mềm. Họ là những người trung gian để truyền đạt yêu cầu từ công ty tới các IT-System-Elektroniker. IT-System-Kaufmann/-frau: Đây là những người chịu trách nhiệm thiết kế và thực tế hóa các yêu cầu từ khách hàng liên quan đến công nghệ thông tin. Họ chịu trách nhiệm tư vấn, hướng dẫn khách hàng, thiết lập kế hoạch Marketing cũng như phụ trách các hóa đơn mua bán sản phẩm. Nguồn nghiên cứu: https://www.bibb.de/de/qube_datenportal_ergebnisse.php?lang%3DDE%26view%3DZR%26bc%3D%26dv%3Dvalue-orig%26icode%3DBE-000%26betyp%3DBHFBF%26co%3D%2Ctrue%2C%2C%2Ctrue%2Ctrue%2C%2C%2C%2C%2C%26gr%3D%26FILE%3Dbasis%26AB%3D01%2C02%26PST%3D01%26BE%3D000%26REGIO%3D00%26JAHR%3D15%2C20%2C25%2C30%2C35%2C40 Tác giả: Kobe
Học ngoại ngữ là một quá trình rất dài và đòi hỏi người học rất nhiều cố gắng, nỗ lực mới có thể đạt đến trình độ cao nhất định. Chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng đã từng ít nhất một lần trải qua chặng đường như vậy và với tư cách là một người theo học, thường thì những câu hỏi sẽ là: “Tiếng ABC có khó học không?”; “Mất bao lâu thì đạt trình độ XYZ?”; “Làm thế nào để nói tiếng ABC được như người ABC?”; vân vân và vân vân. Tiếng Đức dĩ nhiên không phải một ngoại lệ. Vậy thì đã có bạn nào từng đặt ra câu hỏi này chưa: “Thế học tiếng Đức chốt lại là học cái gì?”Dựa trên hiểu biết cá nhân cũng như kinh nghiệm thực tế, mình xin đề xuất một mô hình riêng đối với việc tiếp cận tiếng Đức: mô hình chiếc xe lưu động. Với quy mô của một bài viết truyền thông, mình sẽ không đi sâu vào phân tích từng khía cạnh và làm rõ các giải pháp cụ thể mà chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu và nêu ra ý nghĩa chung của mô hình này. Rất hi vọng trong tương lai không xa, mình sẽ có cơ hội để cải tiến và mở rộng mô hình này ở một luận án nào đó xD! Bây giờ mình sẽ giới thiệu về mô hình chiếc xe lưu động. Đối với mình, chiếc xe lưu động chính là một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi nhưng có thêm lợi thế là có thể di chuyển khắp nơi. Tuy để so sánh cả một bầu trời kiến thức trong ngôn ngữ Đức với một ngôi nhà nhỏ xíu thì cũng có hơi khập khiễng, tuy nhiên chúng ta hãy tạm coi rằng, kiến thức chúng ta cần học chính là chiếc xe lưu động này và việc của chúng ta cần làm là làm cho nó vận hành tốt nhất có thể. Mình sẽ chia các chi tiết của ngôi nhà di động này tương ứng với các kĩ năng cần học đối với ngôn ngữ, cụ thể như sau: 1. Phát âm (Aussprache) = Cánh cửa Xét về mặt độ lớn cũng như quy mô, rõ ràng cánh cửa không là gì so với toàn bộ ngôi nhà. Vậy nhưng, nếu không thể bước qua cánh cửa, chúng ta cũng khỏi bước vào nhà luôn, bất kể trong nhà có cái gì. Đó là lý do mình so sánh cánh cửa với việc học phát âm! Lượng kiến thức về việc học phát âm so với toàn bộ kiến thức chung về tiếng Đức thực tế là rất khiêm tốn. Tuy vậy, kiến thức có biết nhiều hơn nữa mà phát âm sai thì đối với mình cũng không có giá trị gì. Cũng như việc sở hữu một ngôi nhà chất lượng mà không thể bước vào vậy, nói chung là không vui lắm… 2. Vốn từ vựng (Wortschatz) = Đồ đạc trong nhà Một ngôi nhà càng đầy đủ khi nó sở hữu càng nhiều đồ đạc, càng tiện nghi khi nó sở hữu càng nhiều thiết bị hiện đại, cao cấp, đắt tiền. Điều này là không phải bàn cãi! Từ vựng cũng như vậy! Càng biết nhiều từ vựng và càng biết nhiều từ vựng cao cấp thì cuộc sống với tiếng Đức của chúng ta càng trở nên dễ chịu. Việc học từ vựng do vậy cũng như khi xây dựng nội thất của một ngôi nhà. Sẽ rất khó để biết chính xác ngay từ đầu là một ngôi nhà sẽ cần đồ đạc gì. Chúng ta có thể có thể sắm cho mình 1 số đồ đạc theo gợi ý từ kiến trúc sư, tuy nhiên chỉ có chính bản thân chúng ta, từ nhu cầu bản thân và theo thời gian, mới có thể biết chính xác thứ chúng ta cần thêm vào là gì. Vì vậy, hãy cho bản thân thời gian khi học từ vựng! 3. Ngữ pháp (Grammatik) = Cách sắp xếp đồ đạc trong nhà Hãy tưởng tượng bạn có hàng đống đồ đạc hiện đại, tối tân nhưng lại không biết cách tối ưu giá trị sử dụng của chúng. Chẳng hạn như thay vì treo lên tường thì bạn treo chiếc TV lên trần nhà, thay vì để bồn tắm nằm dưới mặt đất thì bạn lại dính nó vào tường,… Ngữ pháp, do vậy, là cách sắp xếp và sử dụng những đồ đạc mà bạn có một cách đúng đắn theo tiêu chuẩn. Ở giai đoạn đầu, khi mà bạn chưa có đồ đạc gì trong nhà hay thậm chí còn chưa bước được nổi vào nhà, dễ nhận thấy là việc học cách sắp xếp đồ là không hề quan trọng. Thế nhưng, theo thời gian, khi đã bước vào được nhà và số lượng đồ đạc đã nhiều lên, việc sắp xếp chúng một cách hợp lý đóng vai trò cực kì quan trọng, đặc biệt nếu các bạn tính đến việc sử dụng một ngôi nhà “Made in Germany” xD! 4. Tư duy ngôn ngữ (Sprachliches Denkvermögen) = Động cơ xe Đây là một khái niệm khá là khó để giải thích trong phạm vi một bài viết ngắn. Một chiếc xe lưu động hay một ngôi nhà di động, ngoài việc để ở, chức năng chính của chúng là giúp cho chủ sở hữu có thể đi khắp nơi và mang theo những tiện ích mà mình đã có. Sẽ thật tuyệt vời nếu có thể bước vào một ngôi nhà, sắm sửa đồ đạc tiện nghi và sắp xếp nó đúng cách. Nhưng nó sẽ mất đi một nửa giá trị ngay nếu tất cả những gì chúng ta có là một ngôi nhà đứng yên! Vâng, chừng nào chúng ta không thể hướng cách tư duy về ngôn ngữ của mình giống như một người bản địa, chừng đó tất cả những gì chúng ta có là một ngôi nhà không tiến về phía trước. Điều đó có nghĩa là, chúng ta có thể tận hưởng sự tiện nghi của nó trong một thời gian ngắn nhất định, nhưng không đời nào có thể cùng với nó đi đến những nơi mà ta chưa từng đến và do vậy, cũng khó có thể đạt được những giới hạn mới. Điểm này mình tin sẽ gây ra nhiều tranh cãi cho người đọc, nhưng mình xin phép để dành đến một dịp khác để làm rõ hơn tất cả những ý tưởng mình nhắc đến ở đây nhé! Trên đây là sơ lược về mô hình chiếc xe lưu động của mình đối với việc học và sử dụng tiếng Đức. Những hình tượng mình mang tới đồng thời cũng tượng trưng cho giá trị sử dụng và mức độ quan trọng của chúng trong việc tiếp cận với ngôn ngữ này. Bài viết này đặc biệt muốn dành tặng cho những bạn đang nghiên cứu và có ý định bắt đầu học tiếng Đức, hay rộng hơn là một ngoại ngữ mới. Mình tin những thứ mới luôn gây ra khó khăn cho tất cả, thế nhưng một cái nhìn và cách tiếp cận hợp lý sẽ giúp cho mọi người rất nhiều trong việc phân phối thời gian, sức lực, tiền bạc và cả sự tập trung nữa. Let’s work smart, not hard! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
LESEN – TEIL 1 Đã viết quá nhiều về kĩ năng viết, hôm nay tôi xin phép chia sẻ phương pháp làm bài đọc của mình, hay còn gọi là “Phương pháp đọc có định hướng” (cái tên này được tạo cảm hứng từ OOP, Objektorientierte Programmierung). Để các bạn dễ hiểu, tôi sẽ sử dụng bài mẫu lấy từ Übungssatz für Erwachsene từ trang chủ của Goethe. Như các bạn có thể thấy, đề bài phần này chia làm 2 thứ: bài đọc (ảnh 1) và câu hỏi cần trả lời (ảnh 2). Theo lẽ thông thường, mọi người sẽ đọc bài đọc trước, sau đó mới đọc đến câu hỏi. Với phương pháp của mình, tôi xin đề xuất cách làm việc như sau: 1. Đọc hiểu phần câu hỏi trước Câu hỏi thường là những câu đơn mang thông tin ngắn gọn và khá dễ hiểu. Việc bắt đầu đọc hiểu câu hỏi đầu tiên mang ý nghĩa khởi động cho bài làm và tạo ra tâm lý tốt hơn nếu bài đọc có khiến các bạn hơi choáng vì nhiều từ mới. Tuy vậy, ý nghĩa thật sự của nó sẽ nằm ở việc tôi làm sau đây: Câu hỏi ở phần này là dạng câu hỏi đúng-sai, thế nên người ta sẽ đưa ra các Vermutungen. Việc của chúng ta sẽ là highlight những thông tin có thể sai để kiểm chứng (ảnh 3). Ở mỗi thông tin được highlight, đương nhiên sẽ có những phương án khác khiến Vermutung đề bài cho trở nên sai. Ví dụ câu 1: Markus macht eine Lehre. Thông tin được tôi highlight là „Markus“ và „Lehre“. Điều đó có nghĩa là: có ai đó làm về việc giảng dạy, hoặc là Markus không phải làm về giảng dạy. Ta ghi nhớ thông tin này, và làm tương tự như vậy với các câu còn lại. 2. Quay lại đọc bài với tờ tóm tắt những thông tin cần kiểm tra từ phần câu hỏi ngay bên cạnh Do đã có khái niệm về những thông tin chúng ta cần quan tâm, ta không còn sa đà vào việc cố gắng dịch từng từ từng chữ sang tiếng Việt, mà tập trung tìm kiếm thông tin mà ta cần. Điều này giúp nâng đáng kể tốc độ đọc của chúng ta, khi mà chúng ta không còn cái cảm giác mông lung khi nhìn một đống chữ vô định hình nữa. Đến thời điểm hiện tại tôi vẫn đang áp dụng phương pháp này cho những bài đọc ở trình độ cao hơn và nhiều chữ hơn. Đại khái cũng giống như kiểu trước khi lên mạng đọc tài liệu về một chủ đề nào đó, tôi ưu tiên viết ra giấy ngắn gọn xem: „Bây giờ mình cần cái gì?“ 3. Trong lúc đọc bài, cũng như nhiều bạn đã làm, tôi tìm đến thông tin tôi cần và chỉ highlight vào những thứ quan trọng 4. Bước cuối cùng là kiểm chứng thông tin và trả lời câu hỏi mà đề bài đưa ra Hi vọng các bạn không thấy cách làm của tôi quá khó hiểu hay khó thực hiện. Chúc các bạn thành công với bài đọc của đề thi B1! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu