Đây là một vấn đề mình đã đề cập rất nhiều với các học sinh của mình, đặc biệt những em mới tham gia học.Mình luôn luôn nói rằng, giáo viên dù có là bất cứ ai, Profile khủng cỡ nào thì vẫn chỉ là con người, và bọn mình không thể nào đảm bảo cho các bạn học mấy tháng sẽ xong trình độ này, trình độ kia. Yếu tố quyết định của việc bạn có học tốt hay học nhanh được hay không, phụ thuộc chủ yếu vào bản thân bạn. Còn dưới tư cách giáo viên, chúng mình sẽ chỉ hướng dẫn bạn, trả lời những câu hỏi mà bạn chưa biết hay đưa ra lời khuyên cho bạn mà thôi. Vậy làm thế nào để tự học? Chúng ta hãy cùng tham khảo những quan điểm dưới đây: 1. Từ bỏ tiếp thu kiến thức thụ động Việc giảng dạy không chỉ riêng ngôn ngữ, mà cả những môn học khác ở Việt Nam nói chung đều theo hướng „Tầm sư học đạo“, có nghĩa là muốn học tốt thì phải tìm thầy/cô hay. Quan điểm này không sai, nhưng có lẽ các bạn quên rằng ở thời đại ngày nay, tất cả những thứ xung quanh ta đều có thể trở thành thầy của ta. Chúng ta có người chị vĩ đại Google, có sách báo, có Youtube, có Netflix, có mạng xã hội, có tất cả mọi thứ. Đừng chờ đến khi giáo viên giảng về một vấn đề rồi tiếp thu nó một cách thụ động qua giáo viên, đừng chờ đến khi giáo viên giao bài cho bạn rồi mới bắt đầu làm, đừng chờ giáo viên phải kiểm tra bài cũ để xem các bạn có hiểu bài hay không. Hãy tìm hiểu trước, hãy đọc trước, hãy có kiến giải cho riêng mình, và hãy đặt thật nhiều câu hỏi. Mình hay nói với các bạn học sinh, tôi sẽ trả lời đủ 1000 câu hỏi của các bạn, nhưng nếu câu hỏi là: „Em không biết gì chỗ này anh nói từ đầu được không?“, thì rất tiếc là mình sẽ không trả lời câu này. Việc học là của các bạn và cho tương lai các bạn, làm sao mà các bạn lại để mình có trách nhiệm với nó hơn cả các bạn được, phải không? 2. Hãy hiểu vấn đề, chứ đừng chỉ biết Ở đây có một câu hỏi phổ biến là: „Vậy như thế nào là hiểu vấn đề?“. Ở đây mỗi người mỗi ý, nhưng theo quan điểm cá nhân của mình, hiểu được một vấn đề, có nghĩa là phải GIẢI THÍCH ĐƯỢC CHO NGƯỜI KHÁC HIỂU VẤN ĐỀ ĐÓ BẰNG NGÔN NGỮ CỦA BẠN. Như các bạn có thể thấy ở biểu đồ hình kim tự tháp phía trên, dạy người khác về một vấn đề là cách tốt nhất để bạn học hiểu vấn đề đó, trái lại với việc chỉ học từ trên lớp. Nếu bạn nào đã học với mình, chắc không còn lạ gì cái câu hỏi: „Bây giờ chúng ta có 4 cách, 3 trong số đó có vai trò đặc biệt quan trọng là Nominativ, Akkusativ và Dativ. Có ai biết tại sao chúng ta lại cần có 3 cách đó hay không?“. Với những câu hỏi kiểu như vậy, hoặc là bạn hiểu vấn đề, còn không thì bạn chỉ có thể nói vẹt lại là tiếng Đức có mấy cách và mỗi cách thì Artikel viết như nào mà thôi! Vì vậy, lời khuyên cho các bạn là hãy cố gắng giải thích ra cho bạn học và cho cả giáo viên nữa, rằng các bạn hiểu những thứ các bạn mới được học như thế nào. Điều này đồng nghĩa với việc rèn luyện thêm kĩ năng thuyết trình nữa đấy nhé! Và các bạn biết kĩ năng thuyết trình dùng cho phần thi nào rồi đấy xD! 3. Hãy bắt tay vào làm, chứ đừng chỉ nghĩ Phương pháp thì mình luôn sẵn sàng đưa cho các bạn, tài liệu và kinh nghiệm cũng thế, nhưng có thực sự làm hay không, thì mình chịu và chỉ có các bạn mới biết được. Nhiều bạn rất hay có nghi ngờ rằng, liệu phương pháp này đúng không, liệu học thế có ăn thua gì không? Cái tình huống này thật ra khá giống mấy anh choai choai đang không biết có nên tỏ tình với crush hay không, vì sắp ra trường. Thế để mình nói luôn với các bạn quan điểm của mình: Thà bị từ chối hay là yêu xong thấy không hợp rồi chia tay, còn dễ chịu hơn là không bao giờ dám nói ra xong rồi lại tiếc. Việc học cũng vậy, không có phương pháp nào là tối ưu cho tất cả mọi người, nhưng các bạn có quyền thử nghiệm và thay đổi nếu cần cơ mà. Ai bắt các bạn phải học như thế mãi đâu? Nhưng ít nhất phải trải nghiệm và thật sự làm trong một khoảng thời gian đủ dài thì bạn mới đủ thông tin để đánh giá một cách làm chứ, phải vậy không? Thế nên, nếu thấy cách làm gì đó hay và nghĩ rằng có thể nó sẽ mang lại gì đó, hãy làm nó đi đã. Có một câu mình thấy rất hay liên quan đến công việc: „Nếu các bạn cảm thấy không thích công việc mình đang làm, hãy từ bỏ nó, hoặc là yên lặng và làm tiếp!“ 4. Hãy viết thật nhiều Đúng vậy, như mình đã nói, ngôn ngữ đối với mình là công cụ giao tiếp. Mà đã là công cụ, nếu không được đưa ra sử dụng thường xuyên, lẽ đương nhiên là công cụ đó sẽ nhanh chóng cùn mòn và kém hiệu quả trong công việc. Việc viết ra bằng tiếng Đức giúp chúng ta rèn luyện cùng lúc một loạt những thứ sau đây: sức sáng tạo, tư duy logic, khả năng chọn lọc, kĩ năng trình bày, tính cẩn thận và đương nhiên là cả ngữ pháp tiếng Đức nữa. Tương tự như một bài viết bàn về kĩ năng nói, mình luôn muốn mọi người hãy là chính mình khi viết. Cụ thể là, hãy viết như cách bạn suy nghĩ, và hãy tập luyện để những gì bạn viết ra có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trước khi để ý đến việc dùng từ hay, từ khó hay các loại Redemittel. Mình không phủ nhận việc học nhiều từ hay và các loại Redemittel giống như người Đức sẽ làm bài viết của các bạn hay và “deutsch” hơn rất nhiều. Tuy nhiên, xin đừng học thuộc lòng 1 đống Redemittel cho sẵn và cố gắng hình thành nội dung bài viết sao cho nhét được thật nhiều Redemittel vào để lấy điểm cao. Hãy hình thành nội dung bài viết một cách tự nhiên và dùng Redemittel vào những vị trí mà bạn cho là phù hợp, hoặc nếu chưa biết, hãy cứ viết theo cách của bạn. Có rất nhiều sự hỗ trợ từ khắp nơi có thể giúp các bạn chỉnh sửa lại cách viết cho tốt hơn (Deutsch mit Kobe chả hạn xD). Quan trọng nhất, mình nhắc lại, là các bạn phải viết ra, càng nhiều càng tốt. Đừng sung sướng khi nhìn thấy bài viết mẫu của người khác nữa. Các bạn có thể học thuộc 40-50 bài viết mẫu để vượt qua 1 kì thi, nhưng các bạn không thể nào học thuộc cả cái ngôn ngữ này cũng như những tình huống trong cuộc sống để mà đem ra dùng khi sang Đức. Lúc đó, mình tin các bạn sẽ hối hận vì đã không dùng thời gian, sức lực và cả tiền bạc một cách hợp lý hơn đấy! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Kobe
Phân tích biểu đồ là phần thi phổ biến trong các kì thi chuẩn hóa như Goethe Zertifikat C1, TestDaF hay DSD. Hôm nay, chúng mình xin giới thiệu đến các bạn những mẫu câu điển hình được sử dụng để phân tích biểu đồ cũng như một vài ví dụ về việc phân tích các dạng biểu đồ khác nhau nhé! A – PHẦN MỞ ĐẦU – EINLEITUNG 1. Was ist der Titel oder Inhalt der Grafik? Das Diagramm zeigt … Die Grafik stellt … dar. Die Tabelle / Das Schaubild / Die Grafik zeigt, dass / wie … Die vorliegende Grafik / Die Tabelle / Das Schaubild / Die Statistik / Das Diagramm gibt Auskunft über … In der Grafik geht es um … Das Thema der Grafik / des Schaubildes ist … Aus der Statistik ist zu ersehen, dass / wie … Dem Schaubild ist zu entnehmen, dass / wie … Das Schaubild stellt … dar. Das Schaubild stellt dar, wie … Was das Schaubild zeigt, ist … Aus dem Diagramm geht hervor, dass / wie … Aus der Tabelle ergibt sich, dass … 2. Wann wurden die Daten erhoben und wie werden sie dargestellt? Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf das Jahr / die Jahre … Die Angaben sind in … (Euro, Prozent, Kilo usw.) Die Werte sind in … angegeben. Die Daten stammen aus dem Jahr … Die Angaben basieren auf einer repräsentativen Umfrage unter …, die in der Zeit vom … bis zum … durchgeführt wurde. Als Basis für den Index wurde das Jahr …. ( = 100 %) gewählt / festgesetzt. 3. Woher stammen die Daten? Die Daten stammen von … / aus einer Umfrage von … Das Schaubild wurde vom … erstellt / herausgegeben. Die Grafik wurde dem / der … entnommen. 4. Wer hat die Daten erhoben? Die Quelle des Schaubildes / der Grafik / des Diagramms ist … Die Zahlen legte (das Statistische Bundesamt, das Institut für …) vor. B – PHẦN THÂN BÀI: MIÊU TẢ VÀ PHÂN TÍCH – BESCHREIBUNG UND ERKLÄRUNG 5. Beschreiben: Aus dem Schaubild geht hervor (geht nicht hervor), dass … Es fällt auf, dass … Es ist interessant, dass … Auffällig ist, dass … Überraschend ist, dass … Erklären lassen sich diese Zahlen möglicherweise mit … Mit / In der Abbildung / Grafik / dem Schaubild soll gezeigt werden, dass … Wie die Tabelle zeigt, … Der Tabelle lässt sich entnehmen, dass … Die Verteilung der Werte für die einzelnen Gruppen / Kategorien ist äußerst uneinheitlich / einheitlich. Als Haupttendenz lässt sich feststellen / erkennen, dass … Es lässt sich eine deutliche Tendenz in Richtung … erkennen. Auf der X / Y-Achse sieht man … 6. Reihenfolge: An erster / zweiter / dritter / … / letzter Stelle steht … Auf dem ersten Platz steht … Den ersten / … Platz belegt … Die erste /… Stelle nimmt … ein. Dann / Danach folgt … mit … Letzter ist … Das Schlusslicht bildet … 7. Entwicklung: Der Anteil / Die Zahl der … ist von (Jahr) / im Jahre … auf … gestiegen / angestiegen / angewachsen / gesunken / zurückgegangen. Der Anteil von der … ist um fast/ mehr als … % gestiegen / gesunken. Die Zahl der … hat sich zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% erhöht / verringert. Die Zahl der … hat zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% zugenommen / abgenommen. In den vergangenen … Jahren steigerte / erhöhte / verringerte sich die Zahl der … um …% Im Zeitraum von … bis… hat sich die Zahl der … fast / mehr als verdoppelt / verdreifacht / vervierfacht. 8. Vergleich: Im Vergleich zu … ist die Zahl der … um …% höher/ niedriger. Im Gegensatz / Im Unterschied zu … ist der Anteil der … um …% gefallen/ gestiegen. Verglichen mit … hat sich die Zahl (von … / der …) um …% gesteigert / verringert. Der Anteil der … ist geringer / höher als der bei … Während … um … stieg, ist … um … gesunken. Für die Gruppe der … ist … wichtiger / bedeutender als für die Gruppe der … Gegenüber … ist … Im Gegensatz/ Unterschied zu … liegt … deutlich höher/ niedriger als … Erwirtschaftete / Erzielte (Jahr) ein Arbeitnehmer eine/n … von …, so kam er (Jahr) bereits auf eine/n … von … . Gaben (Jahr) noch …% der Befragten an, dass sie …, waren es (Jahr). nur noch … C – KẾT LUẬN – KOMMENTARE UND SCHLUSSFOLGERUNGEN. Abschließend kann man feststellen, dass … in den letzten Jahren tendenziell steigt / sinkt. Die Grafik zeigt deutlich den kontinuierlichen Rückgang / Anstieg … In Bezug auf den Zeitraum kann gesagt werden, dass…. Es fällt auf / Es ist unverkennbar / Überraschend ist, dass … Leider kann man nicht deutlichen sehen, dass … Aus der Grafik geht leider nicht hervor, wie … Aus dem präsentierten Datenmaterial lässt sich nicht ersehen, ob / wie… In Bezug auf mein Heimatland sind ähnliche / unterschiedliche Tendenzen zu sehen. Auch in meinem Heimatland würde die Grafik / Tabelle / das Diagramm ähnlich aussehen. >>> Động từ nói về sự tăng trưởng: sich erhöhen, sich steigern, ansteigen, erhöhen, steigen, zunehmen, zulegen, steigern, usw. >>> Động từ nói về tình trạng suy thoái, giảm sút: sich verringern, sich vermindern, abnehmen, fallen, schrumpfen, sinken, senken, reduzieren, usw. CÁC VÍ DỤ CỤ THỂ – BEISPIELE Beispiel 1: Die Grafik zeigt die Entwicklung der Lebenserwartung der Deutschen von 1910 bis heute. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1910, 1932, 1960 und heute. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt und wurden in vier unterschiedlichen Zeiträumen erhoben. Die Lebenserwartung wird in Form von Säulen dargestellt. Es gibt immer zwei Säulen pro Zeitraum, eine blaue und eine rote Säule. Rot ist für die Lebenserwartung der Frauen und blau ist für die Männer. Es lässt sich eine deutliche Tendenz erkennen: Die Deutschen werden immer älter. Am Anfang des letzten Jahrhunderts wurden die deutschen Männer nur ungefähr 45 Jahre alt und die Frauen nur ca. 48 Jahre alt. Heute werden sie fast doppelt so alt. Die Frauen in Deutschland werden im Durchschnitt knapp 82 Jahre alt und die Männer ungefähr 76 Jahre alt. Wie die Tabelle auch zeigt, werden Männer, die 1932 geboren wurden, ungefähr 60 Jahre und die Frauen ungefähr 63 Jahre alt. Männer, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits fast 7 Jahren älter. Die Frauen, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits 10 Jahre älter. Insgesamt wird deutlich, dass die Frauen im Durchschnitt älter werden als die Männer. Es ist auch zu erkennen, dass es sich um Durchschnittszahlen handelt. Meine Großeltern zum Beispiel wurden ungefähr 1920 geboren und sind bereits fast 90 Jahre alt – also älter als der Durchschnitt von denen, die heute geboren werden. Beispiel 2: Der Titel der Grafik heißt Einwohner je Arzt und Zahnarzt. In der Grafik kann man sehen, wie viele Einwohner ein Arzt bzw. ein Zahnarzt in den unterschiedlichen Zeiträumen im Durchschnitt betreut. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1970, 1980, 1991, 2000 und 2003. Sie sind in absoluten Zahlen dargestellt. Es ist ein Säulendiagramm. Für die Zeiträume gibt es jeweils 2 unterschiedliche Säulen. Die hellblaue Säule stellt die Anzahl der Einwohner pro Zahnarzt dar und die andere, die dunkelblaue Säule, stellt die Anzahl der Einwohner pro Arzt dar. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt. Man kann eine deutliche Tendenz erkennen. Der Anteil der Einwohner pro Arzt ist von 1970 bis 2003 gesunken. Das bedeutet, dass es immer mehr Ärzte und Zahnärzte in der Bundesrepublik Deutschland gibt. Es kann auch bedeutet, dass die medizinische Versorgung in Deutschland von 1970 bis 2003 besser geworden ist. Ein Arzt musste 1970 im Durchschnitt 615 Einwohner versorgen. Im Jahre 2003 musste er nur noch weniger als die Hälfte versorgen, nämlich 271 Personen. Der Anteil ist also um fast 56 Prozent gesunken. Im Gegensatz dazu muss ein Zahnarzt 2003 noch rund 1280 Personen betreuen. Das entspricht einem Rückgang von fast 40 Prozent. Im Allgemeinen kann man sagen, dass es immer mehr Ärzte als Zahnärzte gegeben hat. Beispiel 3: Das Schaubild zeigt den Anteil der Privatschulen im Jahre 2008. Die Daten wurden vom Statistischen Bundesamt erhoben und werden in Prozent dargestellt. Man sieht sechs Säulen mit 2 unterschiedlichen Farben bzw. Mustern. Die Muster stehen für allgemeinbildende Schulen und berufliche Schulen. Die Säulen für die beruflichen Schulen sind schräg gestreift und die Säulen für die allgemeinbildenden Schulen haben ein Karo-Muster. Von allen privaten Schulen in Deutschland haben im Jahr 2008 rund drei Fünftel zu den allgemeinbildenden Schulen und die restlichen zwei Fünftel zu den beruflichen Schulen gehört. Man kann auch drei Kategorien erkennen: Deutschland, frühes Bundesgebiet und neue Länder. Für Gesamtdeutschland sieht man, dass ca. 9 Prozent der allgemeinbildenden Schulen und mehr als doppelt so viele Berufsschulen Privatschulen sind. Ähnliche Tendenzen sieht man auch in der Kategorie „Früheres Bundesgebiet”. Demgegenüber ist der Anteil der Privatschulen in den neuen Bundesländern deutlich höher als in den alten Bundesländern. Mit fast 32 Prozent liegt der Anteil der privaten Berufsschulen in den neuen Bundesländern fast doppelt so hoch wie in den alten Bundesländern. Man kann aber feststellen, dass der Anteil der allgemeinbildenden Schulen sowohl in den neuen als auch in den alten Bundesländern fast gleich hoch ist. Auch kann man sagen, dass der Anteil der Berufsschulen doppelt bzw. dreimal so hoch ist wie der Anteil der allgemeinbildenden Schulen. Leider kann man nicht deutlich sehen, warum das so ist. Es wäre auch interessant, den Anteil von Privatschulen in anderen Schulformen zu sehen. In der Grafik fehlt meiner Meinung nach eine Darstellung der Entwicklung. Es würde mich interessieren, wie der Anteil der Privatschulen in den Jahren vor 2008 war. Bài viết có tham khảo dữ liệu từ: www.wirtschaftsdeutsch.de www.sprachzentrum.com.ar Tác giả: Cẩm Chi
Các ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả những động tác và làm rõ ý của người truyền đạt. Trái lại, ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả những khái niệm và mang đến cái nhìn toàn cảnh cho sự việc được nhắc tới. Một dân tộc càng tiến bộ sẽ sở hữu càng nhiều khái niệm trừu tượng và ngôn ngữ của dân tộc đó cũng trở nên trừu tượng hơn. Lý do là vì một khái niệm trừu tượng bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một động từ. Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau đây. Giữa hai câu: “Tôi đi sang Đức” và “Việc đi sang Đức của tôi” có sự khác biệt rõ rệt. Câu đầu tiên tuy rất rõ ràng và dễ hiểu nhưng chỉ diễn tả hành động cụ thể là “đi sang Đức”. Câu thứ hai trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà còn là tất cả các sự kiện dính liền với hành động trên, chẳng hạn “đi với ai”, “đi như thế nào”, “bao giờ đi”, vv và vv. Tiếng Việt của chúng ta đương nhiên cũng có lối hành văn sử dụng danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng hơn. Vì vậy, chắc ai trong số chúng ta cũng đều đồng ý rằng câu “Tôi đi sang Đức” nghe vẫn cảm thấy quen tai hơn. Thế nhưng, là một đất nước sở hữu rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học với những phát minh, lý thuyết đồ sộ, việc ghi chép và lưu trữ nguồn tư liệu khổng lồ đó biến tiếng Đức dần dần trở thành một ngôn ngữ lấy danh từ làm chủ đạo. Bằng cách này, những tư tưởng được đề cập vừa duy trì được tính bao quát và vững chắc, vừa đảm bảo cắt giảm số lượng câu từ để việc lưu trữ đạt hiệu quả cao nhất. Các câu văn dùng nhiều danh từ mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn, rất phù hợp để diễn tả những ý kiến tổng quát và khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc, thay vì những ý kiến cụ thể giới hạn cho từng trường hợp. Đến đây chắc chúng ta cũng đã rõ, tại sao một người Việt Nam lại cảm thấy khó khăn khi học tiếng Đức hơn một người đến từ Anh. Vấn đề không chỉ đơn giản nằm ở mức độ khó hay dễ của tiếng Đức, vấn đề có lẽ xuất hiện ngay từ việc chúng ta đến từ một đất nước với một hệ ngôn ngữ trái ngược. Tuy vậy, ngay bản thân tiếng Đức cũng luôn tồn tại song song hai phong cách diễn đạt một vấn đề như đã nhắc đến ở trên, đó chính là Verbalstil và Nominalstil. Nhìn vào gốc của hai từ, chúng ta dễ dàng nhận ra “Verb” (động từ) và “Nomen” (danh từ). Khi nói chuyện bình thường trong cuộc sống hàng ngày, rõ ràng chúng ta sử dụng chủ yếu là động từ và qua đó, thể hiện một cách tường minh và sống động điều mà chúng ta mong muốn. Vì lý do này, Verbalstil được sử dụng nhiều hơn trong văn nói và còn có các tên gọi quen thuộc khác như “Alltagssprache” hay “Umgangssprache”. Ngược lại, Nominalstil được sử dụng chủ yếu trong các văn bản mang tính học thuật, hàn lâm, chính trị hay hành chính. Các văn bản này sử dụng rất nhiều các cấu trúc gồm danh từ đi kèm giới từ và do đó, đòi hỏi nền tảng ngữ pháp cao hơn nhiều so với việc sử dụng động từ. Do vậy, dù với tư cách là một người Việt học tiếng Đức hay một người yếu kĩ năng viết (một kĩ năng khó với rất nhiều người), chúng ta cần thành thục cách để chuyển đổi từ Verbalstil sang Nominalstil, hay như trong tiếng Đức chúng ta gọi là “Nominalisierung”. Vậy thì có những phương án nào cho “Nominalisierung” và làm thế nào để có thể “nominalisieren” thành công? Vì giới hạn cũng như định hướng bài viết, mình chỉ đề cập đến “Nominalisierung” từ động từ và tạm bỏ qua các loại từ khác. Sau đây là các cách để biến đổi một động từ thành một danh từ trong tiếng Đức: Thay đổi trạng thái của động từ bằng thành phần bổ sung (Explizite Derivation) Xuất phát từ một động từ, chúng ta có thể tạo ra một danh từ mới thông qua việc thêm vào các thành phần bổ sung (Affigierung), ví dụ như tiền tố (Präfix), hậu tố (Suffix) hoặc kết hợp cả 2 thành tố trên (Zirkumfix). Trong trường hợp này, bản chất của động từ ban đầu không hề bị thay đổi và giống của danh từ nhận được thông qua quá trình này sẽ được quyết định hầu hết thông qua Affigierung. Ví dụ, từ các động từ “bilden”, “ergeben” và “wachsen“ chúng ta có thể cấu tạo ra danh từ thông qua việc thêm vào các hậu tố mang xu hướng danh từ hóa (nominale Suffixe): bilden + ung -> die Bildung ergeben + nis -> das Ergebnis wachsen + tum -> das Wachstum Không thay đổi trạng thái của động từ, không sử dụng thành phần bổ sung (Konversion) Trái ngược với việc thay đổi trạng thái của động từ ban đầu (Wortartwechsel), chúng ta chỉ đơn giản chuyển thể một động từ thành một danh từ thông qua việc thêm vào quán từ (Artikel). Ở đây, ta lại có 2 trường hợp riêng biệt gồm: Cấu tạo danh từ giữ nguyên động từ (syntaktische Konversion) và cấu tạo danh từ giữ một phần động từ (morphologische Konversion). Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy tham khảo các ví dụ sau đây: lernen -> das Lernen (syntaktische Konversion) treffen -> das Treffen (syntaktische Konversion) beginnen -> der Beginn (morphologische Konversion) kaufen -> der Kauf (morphologische Konversion) Thay đổi trạng thái của động từ không sử dụng thành phần bổ sung (implizite Derivation) Lấy một phần từ cả 2 phương pháp trên, cách thứ 3 này sẽ vừa thay đổi trạng thái động từ ban đầu (Wortartwechsel) và vừa không sử dụng bất kì thành phần bổ sung (Affigierung) nào. Để phân biệt với trường hợp thứ 2 chúng ta sử dụng khái niệm „Sự thay đổi bản chất của từ“ (Stammvokalwechsel). Để hiểu rõ hơn, hãy cùng tham khảo các ví dụ sau đây: finden -> der Fund gehen -> der Gang genießen -> der Genuss schreiten -> der Schritt Một trong những ưu điểm dễ nhận thấy nhất của việc sử dụng danh từ đó là đôi khi chúng ta có thể bỏ bớt các câu phụ và diễn đạt được ý tương tự một cách gọn gàng hơn. Tuy vậy, ngay cả trong các văn bản mang tính hàn lâm, chúng ta cũng không nên sử dụng „Nominalisierung“ một cách thái quá để tránh việc câu chúng ta viết ra rơi vào tình trạng phức tạp quá mức, gây khó khăn cho việc đọc hiểu. Nói tóm lại, danh từ hóa là một công cụ đa dụng, vừa giúp chúng ta đến gần hơn với văn phong tiếng Đức, vừa giúp chúng ta rèn luyện kĩ năng viết, lại vừa tạo cơ hội để chúng ta xử lý những hiện tượng ngữ pháp phức tạp hơn. Nhưng xét cho cùng, dù là động từ hay danh từ, hãy luôn nhớ rằng, ngôn ngữ chỉ là công cụ giao tiếp, chứ không phải phương tiện để làm màu. Một khi nội dung được truyền tải hợp lý và người tiếp nhận thông tin cảm thấy dễ hiểu, lúc đó mục tiêu của việc học ngôn ngữ đã đạt được, dù là với Verbalstil hay là Nominalstil! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ Bài viết có tham khảo nội dung từ bài viết của SpraKuKo với tiêu đề “Nominalisierung von Verben: Explizite Derivation und Konversion“. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự góp ý của Hoàng Trinh!
Aufnahmeprüfung vào Studienkolleg là một kì thi rất quan trọng với những bạn tốt nghiệp cấp 3 muốn sang Đức học đại học. Tùy vào từng trường mà đề thi sẽ bao gồm những bài thi khác nhau, nhưng hầu như trường nào cũng sẽ có 2 phần thi chính, đó là: Toán và C-Test. Học sinh Việt Nam mình thì chắc chả ai sợ kì thi toán nữa rồi, nên mình cũng không bàn tới ở đây. Theo đánh giá khách quan của mình, C-Test là một kiểu bài thi không quá khó, nhưng cần sự chăm chỉ và CỰC KÌ cẩn thận để đạt điểm cao. Thêm nữa, với tỉ lệ chọi ngày càng khủng khiếp do lượng học sinh sang Đức tăng vọt trong những năm gần đây, kì thi này bỗng dưng trở nên căng thẳng hơn hẳn. Làm hơn kém nhau chỉ một câu thôi mà đã có người đỗ người trượt rồi, nên trong bài viết này, tôi muốn đưa ra một số lời khuyên cho các bạn trong quá trình ôn thi bài thi này. Đầu tiên, tôi sẽ đưa ra những hướng dẫn chung. Có vài điểm sau đây mà các bạn cần lưu ý khi luyện tập làm bài thi C-Test: Không quá tin vào sách ôn thi: Tôi biết các bạn đều biết quyển Mut zur Lücke 1 2 3 4 5 gì gì đó. Nhưng nếu các bạn nghĩ cứ làm quen tay mấy quyển đó rồi là chắc ăn thi đỗ thì các bạn nhầm to. Về cơ bản, người ta có thể lấy bất cứ đoạn văn hay bài báo có sẵn nào rồi che bớt vài từ đi là thành một bài C-Test, nên nguồn tài liệu cho dạng bài thi này thì nó là vô hạn. Có thể với Mut zur Lücke các bạn sẽ làm rất chắc tay những câu cho điểm, hoặc nếu gặp những chủ đề mà các bạn đã gặp rồi thôi. Tuy nhiên, các bạn cần đọc thật nhiều và cũng phải viết thật nhiều để nắm văn phong của người Đức và cải thiện vốn từ vựng. Vốn từ vựng là một cái rất khó cải thiện, nhưng hãy lập ra cho mình một kế hoạch học từ mới một cách hợp lý thông qua việc đọc nhiều dạng tài liệu khác nhau và luôn luôn học từ mới thông qua văn cảnh (Kontext). Không làm sai những câu không được phép sai: Đương nhiên là không có bài thi nào là toàn những thứ khó không ai làm được. Một trong những thứ xuất hiện khá thường xuyên trong bài thi C-Test là việc chia đuôi tính từ. Tầm quan trọng của việc làm đúng những câu như thế này là không phải bàn cãi, giống như là việc buộc phải làm tối đa điểm câu khảo sát đồ thị hàm số trong đề thi toán đại học hồi xưa vậy. Làm thế nào để có thể chia cho đúng đuôi tính từ thì các bạn có thể tham khảo bài viết về việc này tôi đã post cách đây vài ngày! Không dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm: Cái này nói thì nghe có vẻ buồn cười, nhưng tôi tin không ít bạn làm bài thi C-Test bằng cảm giác chỗ này phải là từ này, chứ không đọc để hiểu nội dung chính của toàn bộ đoạn văn (vì hồi trước tôi cũng thế). Cách làm đó tuy cũng có cái lợi là tiết kiệm thời gian, và đôi khi hiệu quả cũng khá cao, nhưng với những đề thi dạng nâng cao hơn một chút là các bạn sẽ bị hoang mang ngay. Thế nên, cái chính vẫn là phải đọc thật là nhiều, và đọc một cách chú tâm để hiểu người ta muốn nói gì trước tiên, rồi sau đó mới bắt đầu để ý các cụm từ tiêu biểu. Và sau đây, tôi sẽ trình bày một số Tricks tôi rút ra từ kinh nghiệm ôn thi của mình: Độ dài của từ: Không biết các bạn có để ý không, tôi thì nhận ra là phải đến 99% số trường hợp thì số từ mà các bạn phải điền vào một chỗ trống luôn cùng lắm là hơn số chữ cho sẵn một chữ thôi. Ví dụ: nếu đề bài cho từ „d…“ thì từ này có thể dài đến tối đa là 3 chữ cái thôi (chẳng hạn „die“, „dem“, „da“,…), chứ không thể là „dass“ hay „denn“ được. Hãy đọc kĩ bài: Như đã nói ở phía trên, nhiều bạn khi làm C-Test có xu hướng đặt bút là làm luôn chứ không đọc tổng thể cả bài. Vì lý do đó, đôi khi các bạn gặp một từ khó khó và mất thời gian suy nghĩ rất lâu ở đó. Không quá thường xuyên, nhưng đôi khi những từ quá khó hoặc quá dài đó sẽ xuất hiện đâu đó trong bài viết ở phần không bị che bớt. Thói quen đọc lướt thẳng đến chỗ cần điền sẽ làm hại các bạn ở trường hợp này. Học từ mới có định hướng: Đương nhiên tôi không khuyến khích các bạn chỉ học những từ ở nhóm này, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, có một số chủ đề rất được ưa chuộng ở bài thi C-Test, bao gồm: giáo dục (đại học, phổ thông, nhà trẻ); môi trường (biến đổi khí hậu, rác thải, năng lượng sạch); nước Đức (lịch sử, văn hóa, chính trị, ẩm thực); khoa học (phát minh, các nhà khoa học nổi tiếng, những cái mẩu chuyện thú vị ngắn ngắn như kiểu quyển „Những hạt thóc trên bàn cờ“ nếu bạn nào biết). Ngoài việc học từ mới nhiều hơn ở những chủ đề này (đặc biệt là danh từ), các bạn cũng có thể tìm kiếm những bài báo ngắn liên quan đến những chủ đề này để đọc thêm về văn phong. Một nguồn tài liệu quý giá mà tôi đã khám phá ra khi ôn thi đó là trang DW Top Thema. Hãy cố gắng đọc ít nhất 3 bài mỗi ngày, sau 1 tháng bạn sẽ ngạc nhiên về vốn từ của mình đấy^^ P/S: Để tăng độ nguy hiểm cho bài viết, tôi đã học đúng như những gì tôi vừa chia sẻ với các bạn sau khi thi trượt Studienkolleg ở Hannover lần đầu. Lần thứ 2, tôi tự tin đến mức thi mỗi Hannover và đã đỗ với điểm C-Test đạt 128/135 (7 câu tôi làm sai đến giờ tôi vẫn nhớ gần hết xD). Thế nên là, theo như Adam Khoo thì: „Tôi làm được, bạn cũng thế“. Chúc các bạn thành công! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Hãy bắt đầu với một câu chuyện quen thuộc hơn liên quan đến tiếng Anh, thứ tiếng quốc dân. Hẳn là chúng ta không còn lạ gì với việc các bậc phụ huynh mất ăn mất ngủ, cho con đi học thêm khắp đông tây nam bắc, với hi vọng con mình đạt được trình độ ngoại ngữ nhất định, mà cụ thể thì từ đơn giản là điểm 9,10 trên lớp, đến cao cấp là các kì thi chuẩn hóa. Dù là một học sinh học chuyên tự nhiên, tôi cũng không thoát khỏi guồng quay chung ấy. Để cho rõ ràng, với tư cách là một giáo viên ngôn ngữ, tôi không hề có ý định phủ định hay làm giảm đi tầm quan trọng không thể chối cãi của việc thông thạo một ngôn ngữ khác tiếng mẹ đẻ. Ngôn ngữ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội hơn, tạo cho chúng ta sự tự tin khi đối diện với những người không cùng tiếng nói và giúp chúng ta truyền đạt những suy nghĩ, ý tưởng của bản thân từ một góc độ mới. Tôi nghĩ câu nói mà thời còn bé mẹ tôi luôn lặp lại mỗi bữa tối đã tổng hợp đầy đủ tầm quan trọng của ngoại ngữ: „Biết thêm một ngoại ngữ là sống thêm một cuộc đời“. Tuy vậy, có vẻ như các bậc phụ huynh, hay ngay cả chính chúng ta, đang quá tập trung vào việc cải thiện ngôn ngữ, dù là tiếng Đức hay tiếng Anh. Có một sự thật mà tôi nhận ra khi đã rời khỏi ghế nhà trường: ngôn ngữ mãi mãi chỉ là một công cụ, một điểm cộng lớn nếu chúng ta có thể làm tốt, nhưng chúng ta đơn giản là không thể làm bất cứ việc gì thành công chỉ nhờ vào vốn ngôn ngữ cả. Nếu dạy học, hẳn kĩ năng sư phạm sẽ phải được chú trọng đầu tiên. Nếu dịch thuật, hẳn kĩ năng dịch thuật cũng như khả năng diễn đạt hợp lý mới là chìa khóa thành công. Nếu hướng dẫn du lịch, hẳn kĩ năng thuyết trình và khả năng gây thiện cảm mới giúp chúng ta có được những đánh giá tích cực. Nói tóm lại, chúng ta không thể làm bất cứ việc gì nếu tất cả những gì chúng ta có thể làm là nói tốt một hay một vài ngoại ngữ! Nhìn rộng ra hơn một chút, tôi nhận thấy sự thiếu sót cực lớn trong việc hướng dẫn người trẻ tại Việt Nam, đặc biệt là các bạn sinh viên. Các bạn có thể học tập rất chăm, điểm rất cao, nhưng những kĩ năng cơ bản trong giao tiếp, ứng xử, xử lý tình huống, làm quen áp lực, quản lý thời gian hay lên kế hoạch thật sự vẫn còn là một dấu hỏi to đùng. Đó đều là những kĩ năng mà ai trong chúng ta cũng cần nếu chúng ta làm bất cứ ngành nghề gì, ở Đức hay Việt Nam, nhưng lại không hề đòi hỏi chúng ta phải quá thông minh hay tài năng. Tại sao một người quản lý nên giao việc cho một người giỏi chuyên môn nhưng luôn muộn giờ, luôn không chuẩn bị, luôn lỡ hẹn và quên lời hứa? Tại sao lại nên đánh giá cao một người giỏi chuyên môn nhưng lại không biết nói lời cảm ơn hay xin lỗi? Ngôn ngữ nói chung, hay tiếng Đức nói riêng, thật sự là một cái đích quan trọng, nhất là khi du học Đức, cả đại học và học nghề, đang nở rộ hơn bao giờ hết. Nhưng ngôn ngữ không phải là tất cả! Có rất nhiều thứ chúng ta cần bỏ thời gian và công sức để nghiêm túc học hỏi, nếu chúng ta muốn trở thành những người có giá trị trong lĩnh vực của bản thân. Vì thế, hãy bắt đầu ngay từ hôm nay bằng việc chuẩn bị kĩ càng cho mọi thứ mình làm, luôn đúng giờ và đừng tiếc lời cảm ơn hay xin lỗi. Với tôi, đó là bước đầu tiên để hòa nhập tốt hơn vào một nền văn hóa Đức với những con người còn nhiều xa lạ, ngay cả khi các bạn vẫn còn đang ở Việt Nam! Tác giả: KobeMinh họa: Diệp Vũ
Cùng với Nebensatz, Adjektivendungen là một trong những đặc sản của tiếng Đức. Tuy chỉ là kiến thức dạng học thuộc, nhưng khá nhiều học sinh vẫn thường xuyên mắc lỗi chia sai về chia đuôi tính từ trong bài viết của mình, và đây là một điều làm tôi cảm thấy rất đáng tiếc. Hơn thế nữa, với những ai dự định thi TestAS bằng tiếng Đức hay thi Aufnahmeprüfung của Studienkolleg thì chia đuôi tính từ gần như là một hình thức tặng điểm, nên dĩ nhiên là tôi không muốn các bạn đánh mất điểm số quý giá ở những thứ dễ như vậy. Tính từ trong tiếng Đức có một điểm dễ và một điểm khó hơn trong tiếng Anh. Điểm dễ là tính từ trong tiếng Đức đồng thời cũng là trạng từ, chứ không cần thêm „ly“ như tiếng Anh. Và điểm khó hơn chính là việc phải chia đuôi khi tính từ đứng trước danh từ. Để đơn giản hóa vấn đề này, tôi sẽ chia việc xác định đuôi tính từ ra thành 3 bước sau đây: Xác định Artikel (quán từ): Trước một tính từ, có thể có bestimmter Artikel (die, der, das,…), unbestimmter Artikel (ein, kein,…) hoặc không có Artikel. Trường hợp không có Artikel tính từ sẽ được chia đuôi như đuôi của bestimmter Artikel nên khá đơn giản (ví dụ, thay vì nói là „das große Haus“ thì ta có thể nói „großes Haus“, đuôi „es“ xuất phát từ Artikel „das“). Xác định Genus (giống của danh từ): như các bạn đã biết, chúng ta có giống cái (feminin), giống đực (maskulin) và giống trung (neutral). Xác định Kasus (cách): và như các bạn cũng đã biết, chúng ta có Nominativ, Akkusativ, Dativ và Genitiv. Sau khi đã xác định được các thông tin trên, chúng ta có 2 Memobox sau đây để tra đuôi tính từ. Trường hợp không có Artikel khá đơn giản nên tôi không bàn đến ở đây nữa. Tôi khuyên các bạn không nên cố học thuộc lòng 2 Memobox này, mà hãy chịu khó mỗi ngày viết ít nhất 1 bài viết, kiểu gì cũng có lúc các bạn phải chia đuôi tính từ thôi. Lúc đó cứ thoải mái tra trong Memobox và xem, sau đó ghi lại. Nếu các bạn để ý kĩ thì cũng có 1 số quy tắc để nhớ nhất định nếu các bạn làm đủ nhiều (ví dụ, Dativ và Genitiv thì 100% là đuôi „en“ usw.). Quan trọng là phải làm thường xuyên và luôn kiểm tra lại bài thật kĩ nhé, tôi tin tất cả các bạn đều có thể học rất nhanh và quen với thứ đặc sản không dễ chịu lắm này . Chúc các bạn thành công! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ
Chúng ta thấy ở khắp mọi nơi các bài viết với tiêu đề „10 bước để trở thành ….“ hay „5 mẹo khiến bạn thành công trong việc…“, tuy nhiên lần này tôi sẽ làm khác đi một chút. Tôi sẽ chỉ cho các bạn những sai lầm mà chúng ta thường mắc phải khi học ngoại ngữ. Qua đây bạn có thể tự liên hệ bản thân, xem mình thường hay mắc phải những lỗi nào hoặc đã làm đúng điều gì. Nếu bạn không mắc phải những lỗi sai này thì thật tốt, còn nếu không, thì có thể đã đến lúc bạn thay đổi một số thói quen để học tiếng Đức hiệu quả hơn rồi đấy. SAI LẦM SỐ 1: KHÔNG CHỊU ĐẶT CÂU HỎI Nghe thật chẳng liên quan, nhưng khi bạn học ngoại ngữ thì điều rất rất rất quan trọng đó chính là đặt thật nhiều câu hỏi! Không có câu hỏi nào là ngu ngốc cả! Mỗi câu hỏi bạn đặt ra đưa bạn đến một bước gần hơn với việc sử dụng ngôn ngữ một cách thành thạo, chẳng phải chính là điều bạn mong muốn? Phải đặt 100 câu hỏi sẽ tốt hơn nhiều so với việc lặp đi lặp lại 1 lỗi sai 100 lần và trở nên chán nản với việc học ngoại ngữ. Hãy nhớ rằng, bạn không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người duy nhất học ngoại ngữ này. Có rất nhiều người có thể giúp bạn, không nhất thiết phải là giáo viên ở trung tâm dạy tiếng, bạn có thể sử dụng Internet, hỏi người bản ngữ hay là cả những bạn cùng học với bạn, vì rất có thể họ biết những từ mà bạn không biết. Hãy cứ mạnh dạn đặt câu hỏi và đặt câu hỏi thường xuyên. Đừng đợi đến 1 ngày trước khi đi thi và viết cho tôi một cái Email cầu cứu „Cô Marija thân mến, ngày mai em đi thi rồi và đây là 873 câu hỏi của em. Cô có thể nhanh chóng…“. Lúc này thì tôi có muốn cũng không nhanh được nữa rồi. SAI LẦM SỐ 2: KHÔNG NẮM ĐƯỢC PHƯƠNG PHÁP HỌC PHÙ HỢP/HIỆU QUẢ VỚI BẢN THÂN MÌNH Ở những trung tâm học tiếng thì chẳng thầy cô giáo nào quan tâm đến việc các học viên của mình phù hợp với phương pháp học nào. Nhưng điều này bạn có thể tự làm được, bạn có thể tự quyết định khi tự học ở nhà, học theo cách nào để hiệu quả nhất với mình. Nếu chưa chắc chắn bạn có thể hỏi chị Google „Phương pháp học nào phù hợp với tôi?“ (Welcher Lerntyp bin ich?“) chẳng hạn, thì sẽ có vô số những bài kiểm tra online để bạn có thể tìm ra, bạn nên xem nhiều Video hơn hay nghe các bài đọc, nên viết ra hay nên học nói nhiều hơn. À mà thực ra, học nói là một việc mà tất cả người học tiếng nên làm, cho dù bạn thuộc type người học nào. Sẽ chẳng có ích gì nếu đưa cho một người thích học bằng hình ảnh mỗi ngày 10 bài tập nghe, vì người này chỉ có thể học từ khi mà anh ta viết nó ra và nhìn thấy nó. Đối với những người học kiểu này thì tôi khuyên rằng các bạn hãy học từ mới bằng cách viết chúng lên những thẻ học từ hay là giấy nhớ, hay là vẽ ra và để chúng ở chỗ mà bạn thường xuyên nhìn thấy. Nếu hiện tại bạn có cảm giác, mình học tiếng chưa hiệu quả, thì có thể các bạn vẫn chưa tìm được phương pháp học phù hợp dành cho bạn. Hãy thử nhiều cách học khác nhau để tìm ra phương pháp tốt nhất cho riêng mình nhé! SAI LẦM SỐ 3: HỌC VẸT TỪ MỚI MÀ KHÔNG DỰA VÀO NGỮ CẢNH HAY VÍ DỤ Tôi sẽ nói tiếp về vấn đề học từ mới. Lời khuyên cho các bạn: ĐỪNG BAO GIỜ học từ mới mà không đặt vào ngữ cảnh hoặc có ví dụ cụ thể! Sẽ chẳng có ích gì nếu bạn học mỗi từ „freuen“ mà không biết rằng 1) nó là 1 động từ phản thân („sich freuen“), 2) nó là một động từ phản thân đi với cách 4 Akkusativ („ich freue mich“ chứ không phải „ich freue mir“) và 3) có 3 giới từ có thể sử dụng với động từ này: auf, über và für. Cách hiệu quả nhất để học động từ „sich freuen“ là bạn tự đặt ra cho mình 3 ví dụ như thế này: sich freuen (Akk) 1) Ich freue mich auf Weihnachten. (Tôi rất mong chờ đến Giáng sinh – một sự việc chưa xảy ra, sẽ xảy ra trong tương lai.) 2) Ich freue mich über die schönen Blumen. (die ich bekommen habe) (Tôi rất vui vì những bông hoa (mà tôi đã nhận được) – một sự việc đã xảy ra trong quá khứ) 3) Ich freue mich für Elke: Sie hat den Nobelpreis für Literatur bekommen. (Tôi mừng cho Elke: cô ấy đã nhận được giải Nobel văn học – mừng cho ai đó). Tôi dám khẳng định là việc học từ của bạn sẽ hoàn toàn vô ích khi mà bạn không học theo cách này. Khi bạn học từ mới chuyên ngành, như là về Kinh tế, Luật, Chính trị, vv.. hãy LUÔN LUÔN ghi nhớ và viết ra, những từ này được sử dụng trong ngữ cảnh nào. Nếu bạn không để tâm đến sự khác nhau giữa văn nói và văn viết, điều đó không những có thể khiến bạn mất điểm trong bài thi mà còn có thể đẩy bạn vào những tình huống dở khóc dở cười trong cuộc sống hàng ngày! SAI LẦM SỐ 4: HỌC QUÁ NHIỀU NGỮ PHÁP! “Là sao? Sao có thể có chuyện „Học quá nhiều ngữ pháp“!? Rõ ràng là người ta cần ngữ pháp để có thể nói đúng cơ mà?” Theo tôi, điều đó vừa đúng vừa sai. Người ta chỉ cần vừa đủ ngữ pháp, để có thể nói đúng, và không cần nhiều hơn thế. Nhưng vấn đề ở đây nằm ở chỗ, làm sao tôi có thể biết được khi nào là đủ, là quá nhiều hay quá ít ngữ pháp? Rất đơn giản nếu muốn xác định được bạn có đang để tâm quá nhiều vào ngữ pháp hay không. Khi bạn có thể nói được ngay không cần suy nghĩ Trạng từ cấu thành từ phân từ II là gì, người ta sử dụng Konjunktiv I như thế nào, hay là sự khác nhau giữa chia đuôi tính từ và chia động từ, … mà lại cần hơn 5 giây ở tiệm bánh để suy nghĩ xem mình phải nói gì khi muốn mua một cái bánh mì, thì điều này có nghĩa là, những hiện tượng ngữ pháp cao siêu bạn đã học chẳng giúp gì cho bạn trong việc giao tiếp hàng ngày bằng ngoại ngữ cả, và đó là một điều không nên. Khi bạn đã xác định rằng mình đã để tâm quá nhiều vào việc học ngữ pháp mà lại chẳng thể áp dụng chúng vào thực tế, thì hãy tạm thời cất cuốn sách ngữ pháp của bạn sang một bên và chú ý hơn vào những tình huống hàng ngày và những từ thường được sử dụng. Đơn giản nhất hãy học cả câu hoàn chỉnh mà đừng chăm chăm phân tích xem tại sao, hay ở đây nên dùng hiện tượng ngữ pháp nào? Người bản ngữ thường chẳng biết được đến 10% ngữ pháp mà bạn được học đâu, họ vẫn nói bình thường, tất nhiên không phải lúc nào cũng đúng, nhưng điều này thật sự không quá quan trọng trong hầu hết các hội thoại. SAI LẦM SỐ 5: QUÁ CHÚ Ý ĐẾN SỰ PHÂN LOẠI TRÌNH ĐỘ (A2, B1, B2…) Ít người biết là sự phân loại trình độ ngoại ngữ theo tiêu chuẩn của Châu Âu này chỉ giúp ích cho các Trung tâm dạy tiếng trong việc tổ chức lớp học một cách hiệu quả. Việc chia trình độ này lại không hề hữu ích với cá nhân người học tiếng. Bạn thử nghĩ mà xem, trường dạy tiếng tổ chức các khoá học A2.1, rồi đến A2.2 v.v… Nhưng ai sẽ quyết định việc bạn học bao nhiêu ngoại ngữ trong 1 trình độ? Đúng là bạn nhận được giáo trình và tài liệu học, nhưng bạn có thực sự học tất cả những tài liệu ấy không? Ví dụ ở trình độ B1, bạn nhận được một danh sách động từ cùng giới từ đi với nó. Bạn có học thuộc hết danh sách này không? Hay bạn cất nó vào cặp tài liệu tiếng Đức của mình và hy vọng đến một lúc nào đó các từ mới sẽ tự động nhảy vào đầu bạn? Vấn đề nằm ở chỗ, ngôn ngữ bạn học được không được sắp xếp theo trình độ trong đầu. Điều quan trọng là, ở trình độ A1 bạn có thể tự đặt câu và có thể nghe hiểu được một vài câu đơn lẻ. Ở trình độ A2 bạn có thể thực hiện cuộc hội thoại đơn giản và ở trình độ B1 bạn có thể nghe hiểu nhiều hơn và vốn từ vựng của bạn cũng dần mở rộng. Điều mà bạn phải biết là, bạn có thể bỏ qua việc phân loại kiến thức theo trình độ như vậy và học hoàn toàn thoải mái, tùy vào nhu cầu của mình. Khi các bạn chuẩn bị cho bài thi C1, nhưng lại sử dụng sai giới từ, thì tốt nhất bạn nên xem lại thật kĩ hiện tượng ngữ pháp này trong giáo trình A1 hoặc A2. Điều đó thực sự chẳng có vấn đề gì cả! Tất nhiên sẽ chẳng có ích gì khi mà bạn đọc bài viết ở trình độ C1 khi bạn mới bắt đầu học A1, nhưng ở trình độ A2 bạn có thể đọc một cuốn sách „thật sự“ (Ví dụ như 1 quyển sách song ngữ) và không ai có quyền nói với các bạn là quyển sách đó „quá khó“ đối với bạn cả. Khi bạn nhất định muốn đọc một cuốn sách bằng tiếng Đức thì hãy cứ làm như bạn muốn. Khi bạn làm như thế, bạn có thể tự hào về chính bản thân mình! Và A1 hay B1 hay D8 v.v… cũng chỉ là chữ cái và con số mà thôi, hãy tin tôi đi! SAI LẦM SỐ 6: THƯỜNG XUYÊN DỊCH RA TIẾNG MẸ ĐẺ Tôi phải thừa nhận rằng, tôi là một giáo viên vô cùng kiên nhẫn. Tôi vẫn luôn như vậy. Tuy nhiên có một câu hỏi trong các tiết học luôn làm tôi phát cáu: “Từ này dịch sang tiếng Nga/Anh/Rumani/Ả Rập là gì?” Nói thật, tôi không muốn làm các bạn thất vọng đâu, nhưng trong Tiếng Đức có rất nhiều từ, mà việc dịch nó một cách hoàn toàn chính xác sang các ngôn ngữ khác là điều không thể. Vậy ta phải làm thế nào? Đơn giản thôi, ta sẽ mắc ít lỗi sai hơn, khi ta từ bỏ việc cứ tìm cách dịch từ một cách thật chính xác từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, thay vì thế chúng ta nên dựa vào ngữ cảnh cụ thể để học từ – từ tiếng Đức đó có thể được sử dụng chính xác trong những trường hợp nào. Việc hiểu được khi nào một từ được sử dụng trong một ngữ cảnh nào bằng cách tự đặt một vài câu ví dụ điển hình là rất quan trọng. Nghĩa dịch của từ chỉ là phụ thôi, hãy tin tôi đi! Bạn sẽ đỡ đau đầu hơn rất nhiều nếu bạn tra nghĩa của một từ mới bằng một quyển từ điển Đức-Đức (Ví dụ như là Duden hay là Langenscheidt), thay vì tìm nghĩa dịch (sang tiếng Việt) của nó một cách vô vọng. Chưa kể, chẳng có quyển từ điển nào trên thế giới là đảm bảo chính xác 100% cả. Đã có rất nhiều học sinh của tôi suýt bật khóc khi nghe tôi nói: Cái nghĩa dịch đó trong từ điển Ả Rập/Trung Quốc/Nga – Đức của các bạn không chính xác đâu, trong tiếng Đức chẳng có từ nào như thế, hoặc từ đó đã không được sử dụng từ cách đây 300 năm rồi. (Đặc biệt ngạc nhiên những quyển từ điển như thế thường là từ điển Ả Rập – Đức hay toàn bộ những từ điển từ các nước Châu Á. Tôi đã tìm thấy vô cùng nhiều từ “Tiếng Đức” thú vị trong từ điển của các bạn Việt Nam hay Trung Quốc – những từ mà một giáo viên tiếng Đức như tôi chưa bao giờ nhìn thấy.) SAI LẦM SỐ 7: SỰ NGHÈO NÀN TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN Điều này đơn giản có nghĩa là: Không biết cách áp dụng các phương tiện thông tin cho mục đích học. Đúng hơn thì, sách cũng là một phương tiện thông tin. Tuy nhiên, cái tôi muốn nhắc đến ở đây là những phương tiện thông tin “hiện đại”: Internet và đồng bọn. Tôi luôn có những cuộc hội thoại “chẩn đoán” với học sinh của mình và luôn có cảm giác mình như là Dr. House vậy. Tôi hỏi: Từ đó đến giờ các em học bằng cách nào? Các em đã sử dụng phương tiện thông tin nào để học? Điều quan trọng với tôi là, tôi muốn hiểu được học sinh của mình sắp xếp tổ chức quá trình học của mình như thế nào, để rồi từ đó tôi có thể biết được, tôi có thể làm gì để giúp các em. Chuyện gì thế nhỉ? Chúng ta đang sống ở thế kỉ 21! Thông tin cách chúng ta chưa đến một bước chân, chúng ta có thể sử dụng TẤT CẢ MỌI THỨ để học. Chúng ta có thể xem phim truyền hình, phim dài tập, nghe tin tức và/hoặc nghe nhạc, xem phỏng vấn với người bản xứ trên Youtube hay trên TV, chúng ta có thể sử dụng sách, báo, tạp chí, các ứng dụng và phần mềm… Có vô số phương tiện giúp chúng ta trong việc học, nhiệm vụ duy nhất của chúng ta là chọn ra những thứ phù hợp với mình mà thôi! Các bạn hiểu ý tôi chứ? Khi các bạn chuẩn bị cho kì thi B2 hay C1, nếu chỉ học từ trong sách luyện thi thôi thì không thể đủ (cho dù sách của các bạn có tốt cỡ nào đi nữa!). Cuốn sách chỉ chuẩn bị cho bạn về dạng đề thi, kiểu bài tập nào sẽ có trong bài thi. Tất cả những thứ còn lại bạn buộc phải học bằng những cách khác. Đúng thế, cuộc sống này chẳng dễ dàng chút nào. Tôi biết. Nhưng tôi muốn cảnh báo các bạn khi mọi thứ còn chưa quá muộn. SAI LẦM SỐ 8: KHÔNG PHONG PHÚ CÁCH HỌC Sai lầm này có liên quan trực tiếp đến sai lầm số 7 mà tôi đã đề cập phía trên. Mấu chốt trong việc học hiệu quả nằm ở chỗ, bạn cần lên kế hoạch học cho mình với những hoạt động khác nhau. Các bạn không nên chỉ làm bài tập ngữ pháp liền tù tì trong 4 tiếng đồng hồ, điều đó chỉ khiến các bạn tức giận và chán nản khi mà đến cuối buổi bạn có cảm giác bạn chẳng biết và chẳng hiểu cái gì. Thay vào đó sẽ hiệu quả hơn nếu mỗi ngày bạn đọc một vài trang, tập viết một vài câu, học vài từ mới (bằng ứng dụng trên điện thoại hay thẻ học từ đều được cả), xem một Video hay một tập phim trong Serie yêu thích, nghe một bài hát và đọc theo lời bài hát đó… Các bạn nắm được nguyên tắc này chứ? Bạn không được để việc học trở nên nhàm chán và bạn có phải có trách nhiệm với việc học của mình. Không có giáo viên nào có thể nói cho các bạn rằng các bạn nên học như thế nào. Giáo viên có thể giúp đỡ, cung cấp tài liệu phù hợp cho bạn, nhưng việc học là việc của các bạn. ☺ SAI LẦM SỐ 9: KHÔNG ÁP DỤNG THỰC TẾ Rất nhiều người nhắn tin cho tôi trên Facebook và Youtube nhờ tôi giúp đỡ. Thường tôi hay nhận được những tin nhắn kiểu như: “Marija thân mến, làm ơn giúp tôi. Tôi không quen người bản địa nào và muốn luyện nói tiếng Đức.” Tất nhiên tôi sẽ hỏi lại: “Bạn sống ở đâu?”. Câu trả lời thường là: “Tôi ở Hamburg, được 6 năm rồi.” (hay “Tôi ở Berlin từ 2 năm nay” – cũng thế cả thôi). Làm thế nào mà các bạn có thể không quen người bản xứ nào khi mà các bạn đang sống ở Đức vậy?” Và sau đó, tôi được nghe được những câu chuyện buồn, rằng những người bản địa thật xấu xa và ghét người nước ngoài. Điều đó không hề đúng – các bạn phải chủ động mở lời với người khác trước. Không phải tất cả mọi người đều tự tìm đến với bạn đâu. Nói nhỏ cho các bạn một mẹo: Hãy trở thành tình nguyện viên! Bạn không nhất thiết phải làm nhiều, chỉ vài tiếng một tuần thôi chẳng hạn, đổi lại bạn có cơ hội được luyện tập nói tiếng Đức. Hầu như ở mọi nơi trên các nước Đức, Áo hay Thuỵ Sĩ bạn đều có thể tìm được những công việc tự nguyện. Hãy hỏi Hội Chữ Thập Đỏ, Caritas hay Hiệp Hội Phúc Lợi Người Lao Động (AWO) hay những tổ chức tương tự… Ngoài việc ngoại ngữ của bạn sẽ tốt lên, bạn còn có thể có được tiếng tốt khi làm những công việc tình nguyện đó. Khi bạn không sống ở những đất nước nói tiếng Đức, hãy tìm cho mình những người bạn để cùng học tiếng, hay các nhóm học tiếng, những nhóm như thế có đầy rẫy trên mạng. Có thể sẽ khó tìm hơn một chút nếu các bạn không muốn bỏ tiền ra để học, nhưng thường thì người ta sẽ tìm thấy để có thể luyện nói tiếng Đức qua Skype hay các phương tiện tương tự. P/S: hoặc là follow page @Deutsch mit Kobe cũng không phải 1 ý tồi (cái này là ý kiến thêm của mình xD) SAI LẦM SỐ 10: KHÔNG TÌM ĐƯỢC NIỀM VUI TRONG VIỆC HỌC Lẽ ra tôi nên viết điều này ngay từ đầu tiên. Hầu hết người học tiếng Đức mà tôi biết, không tìm thấy niềm vui trong việc học. Họ nói rằng, đến trình độ A2 là không còn cảm thấy hứng thú học nữa, đến đấy cái gì cũng trở nên khó, ngữ pháp thì thật là khủng khiếp, từ vựng thì chả thể nhớ được, còn phát âm thì toàn sai… Sự thật là, không phải tôi phát minh ra điều này đâu, nhưng mà khi chúng ta có động lực học thì việc học sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều!!! Hãy tìm nguồn cảm hứng để học và tìm cách kết nối chúng với những sở thích của bạn. (Công thức nấu ăn bằng tiếng Đức, Tạp chí “Home, sweet home” bằng tiếng Đức). Hãy tìm ra những điều khiến bạn vui thích. Bạn thích vẽ? Hãy phác hoạ ra danh sách từ mới, trang trí căn hộ của bạn với những mẩu giấy đầy màu sắc, mà trên đó có những từ mới hay câu mà bạn cần ghi nhớ! Sức sáng tạo của chúng ta là vô hạn! Bạn thích nghe Rammstein? Hãy nhớ xem cả lời bài hát nhé! Bạn thích đọc? Hãy đọc sách bằng tiếng Đức! Bạn yêu thích “Game of Thrones” hay “Greys Anatomy”? Hãy xem tập phim mới ra (hay những tập bạn đã xem) bằng tiếng Đức! Nếu bạn thích sáng tác truyện, hãy thử viết bằng tiếng Đức xem sao nhé! Mới đầu bạn có thể mắc bao nhiêu lỗi cũng chẳng sao! Nếu bạn có con hãy cùng chúng xem những chương trình hoạt hình như là “Die kleine Prinzessin” hay “Peppa Wutz” ☺ Hoặc đọc cho chúng nghe những cuốn sách của Astrid Lindgren! Hy vọng các bạn có thể hiểu điều tôi muốn nói! Khi tất cả những điều này đều không có tác dụng với bạn, thì hãy liên hệ với tôi qua Facebook hay Youtube, chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra cách nào đó để học tiếng Đức hiệu quả hơn… ☺ Bài viết gốc „10 Dinge, die man beim Deutschlernen falsch machen kann“ của Marija Dobro từ Youtuber nổi tiếng „Deutsch mit Marija“.Chuyển dịch: KobeMinh họa: Bích Diệu