Các ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả những động tác và làm rõ ý của người truyền đạt. Trái lại, ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả những khái niệm và mang đến cái nhìn toàn cảnh cho sự việc được nhắc tới. Một dân tộc càng tiến bộ sẽ sở hữu càng nhiều khái niệm trừu tượng và ngôn ngữ của dân tộc đó cũng trở nên trừu tượng hơn. Lý do là vì một khái niệm trừu tượng bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một động từ.
Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau đây. Giữa hai câu: “Tôi đi sang Đức” và “Việc đi sang Đức của tôi” có sự khác biệt rõ rệt. Câu đầu tiên tuy rất rõ ràng và dễ hiểu nhưng chỉ diễn tả hành động cụ thể là “đi sang Đức”. Câu thứ hai trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà còn là tất cả các sự kiện dính liền với hành động trên, chẳng hạn “đi với ai”, “đi như thế nào”, “bao giờ đi”, vv và vv.
Tiếng Việt của chúng ta đương nhiên cũng có lối hành văn sử dụng danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng hơn. Vì vậy, chắc ai trong số chúng ta cũng đều đồng ý rằng câu “Tôi đi sang Đức” nghe vẫn cảm thấy quen tai hơn. Thế nhưng, là một đất nước sở hữu rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học với những phát minh, lý thuyết đồ sộ, việc ghi chép và lưu trữ nguồn tư liệu khổng lồ đó biến tiếng Đức dần dần trở thành một ngôn ngữ lấy danh từ làm chủ đạo. Bằng cách này, những tư tưởng được đề cập vừa duy trì được tính bao quát và vững chắc, vừa đảm bảo cắt giảm số lượng câu từ để việc lưu trữ đạt hiệu quả cao nhất. Các câu văn dùng nhiều danh từ mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn, rất phù hợp để diễn tả những ý kiến tổng quát và khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc, thay vì những ý kiến cụ thể giới hạn cho từng trường hợp.
Đến đây chắc chúng ta cũng đã rõ, tại sao một người Việt Nam lại cảm thấy khó khăn khi học tiếng Đức hơn một người đến từ Anh. Vấn đề không chỉ đơn giản nằm ở mức độ khó hay dễ của tiếng Đức, vấn đề có lẽ xuất hiện ngay từ việc chúng ta đến từ một đất nước với một hệ ngôn ngữ trái ngược.
Tuy vậy, ngay bản thân tiếng Đức cũng luôn tồn tại song song hai phong cách diễn đạt một vấn đề như đã nhắc đến ở trên, đó chính là Verbalstil và Nominalstil. Nhìn vào gốc của hai từ, chúng ta dễ dàng nhận ra “Verb” (động từ) và “Nomen” (danh từ). Khi nói chuyện bình thường trong cuộc sống hàng ngày, rõ ràng chúng ta sử dụng chủ yếu là động từ và qua đó, thể hiện một cách tường minh và sống động điều mà chúng ta mong muốn. Vì lý do này, Verbalstil được sử dụng nhiều hơn trong văn nói và còn có các tên gọi quen thuộc khác như “Alltagssprache” hay “Umgangssprache”. Ngược lại, Nominalstil được sử dụng chủ yếu trong các văn bản mang tính học thuật, hàn lâm, chính trị hay hành chính. Các văn bản này sử dụng rất nhiều các cấu trúc gồm danh từ đi kèm giới từ và do đó, đòi hỏi nền tảng ngữ pháp cao hơn nhiều so với việc sử dụng động từ.
Do vậy, dù với tư cách là một người Việt học tiếng Đức hay một người yếu kĩ năng viết (một kĩ năng khó với rất nhiều người), chúng ta cần thành thục cách để chuyển đổi từ Verbalstil sang Nominalstil, hay như trong tiếng Đức chúng ta gọi là “Nominalisierung”. Vậy thì có những phương án nào cho “Nominalisierung” và làm thế nào để có thể “nominalisieren” thành công? Vì giới hạn cũng như định hướng bài viết, mình chỉ đề cập đến “Nominalisierung” từ động từ và tạm bỏ qua các loại từ khác.
Sau đây là các cách để biến đổi một động từ thành một danh từ trong tiếng Đức:
Thay đổi trạng thái của động từ bằng thành phần bổ sung (Explizite Derivation)
Xuất phát từ một động từ, chúng ta có thể tạo ra một danh từ mới thông qua việc thêm vào các thành phần bổ sung (Affigierung), ví dụ như tiền tố (Präfix), hậu tố (Suffix) hoặc kết hợp cả 2 thành tố trên (Zirkumfix). Trong trường hợp này, bản chất của động từ ban đầu không hề bị thay đổi và giống của danh từ nhận được thông qua quá trình này sẽ được quyết định hầu hết thông qua Affigierung.
Ví dụ, từ các động từ “bilden”, “ergeben” và “wachsen“ chúng ta có thể cấu tạo ra danh từ thông qua việc thêm vào các hậu tố mang xu hướng danh từ hóa (nominale Suffixe):
bilden + ung -> die Bildung
ergeben + nis -> das Ergebnis
wachsen + tum -> das Wachstum
Không thay đổi trạng thái của động từ, không sử dụng thành phần bổ sung (Konversion)
Trái ngược với việc thay đổi trạng thái của động từ ban đầu (Wortartwechsel), chúng ta chỉ đơn giản chuyển thể một động từ thành một danh từ thông qua việc thêm vào quán từ (Artikel). Ở đây, ta lại có 2 trường hợp riêng biệt gồm: Cấu tạo danh từ giữ nguyên động từ (syntaktische Konversion) và cấu tạo danh từ giữ một phần động từ (morphologische Konversion). Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy tham khảo các ví dụ sau đây:
lernen -> das Lernen (syntaktische Konversion)
treffen -> das Treffen (syntaktische Konversion)
beginnen -> der Beginn (morphologische Konversion)
kaufen -> der Kauf (morphologische Konversion)
Thay đổi trạng thái của động từ không sử dụng thành phần bổ sung (implizite Derivation)
Lấy một phần từ cả 2 phương pháp trên, cách thứ 3 này sẽ vừa thay đổi trạng thái động từ ban đầu (Wortartwechsel) và vừa không sử dụng bất kì thành phần bổ sung (Affigierung) nào. Để phân biệt với trường hợp thứ 2 chúng ta sử dụng khái niệm „Sự thay đổi bản chất của từ“ (Stammvokalwechsel). Để hiểu rõ hơn, hãy cùng tham khảo các ví dụ sau đây:
finden -> der Fund
gehen -> der Gang
genießen -> der Genuss
schreiten -> der Schritt
Một trong những ưu điểm dễ nhận thấy nhất của việc sử dụng danh từ đó là đôi khi chúng ta có thể bỏ bớt các câu phụ và diễn đạt được ý tương tự một cách gọn gàng hơn. Tuy vậy, ngay cả trong các văn bản mang tính hàn lâm, chúng ta cũng không nên sử dụng „Nominalisierung“ một cách thái quá để tránh việc câu chúng ta viết ra rơi vào tình trạng phức tạp quá mức, gây khó khăn cho việc đọc hiểu.
Nói tóm lại, danh từ hóa là một công cụ đa dụng, vừa giúp chúng ta đến gần hơn với văn phong tiếng Đức, vừa giúp chúng ta rèn luyện kĩ năng viết, lại vừa tạo cơ hội để chúng ta xử lý những hiện tượng ngữ pháp phức tạp hơn. Nhưng xét cho cùng, dù là động từ hay danh từ, hãy luôn nhớ rằng, ngôn ngữ chỉ là công cụ giao tiếp, chứ không phải phương tiện để làm màu. Một khi nội dung được truyền tải hợp lý và người tiếp nhận thông tin cảm thấy dễ hiểu, lúc đó mục tiêu của việc học ngôn ngữ đã đạt được, dù là với Verbalstil hay là Nominalstil!
Tác giả: Kobe
Minh hoạ: Diệp Vũ
Bài viết có tham khảo nội dung từ bài viết của SpraKuKo với tiêu đề “Nominalisierung von Verben: Explizite Derivation und Konversion“. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự góp ý của Hoàng Trinh!