Việc học ngôn ngữ, về cơ bản, chính là học cách giao tiếp: tiếp nhận thông tin qua âm thanh (Hörverstehen) và qua chữ viết (Leseverstehen) đồng thời truyền tải thông tin qua giọng nói (mündlicher Ausdruck) và qua chữ viết (schriftlicher Ausdruck). Trong khi 2 kỹ năng mang tính bị động ở trên có thể được cải thiện nhanh chóng thông qua mở rộng vốn từ và tăng thời lượng tiếp xúc ngôn ngữ thì để thực hành 2 kỹ năng mang tính chủ động được hiệu quả, ta cần cải thiện nền tư duy lập luận trước tiên. Yếu tố chính quyết định một bài thuyết trình hay bài luận bằng tiếng Đức có thành công hay không, xét cho cùng, chính là cách sắp xếp và xử lý các ý tưởng, quan điểm và kiến thức của người học. Người có tư duy lập luận tốt sẽ dễ dàng đưa ra chứng minh cho một nhận định, dễ dàng khiến cho quan điểm của mình trở nên thuyết phục và cũng dễ dàng chiếm được cảm tình của người khác đối các ý tưởng mới mà họ đưa ra. Trong bài viết này, mình muốn giới thiệu với các bạn về hiểu biết của cá nhân mình ở lĩnh vực này cũng như giá trị thực tiễn của nó trong việc học 2 kỹ năng nói và viết của tiếng Đức. 1. Thế nào là lập luận? Trong cuộc sống, việc những người khác nhau có quan điểm, cách lý giải khác nhau về một vấn đề là một việc rất hay gặp. Đó có thể là khi đứa con muốn đi chơi còn cha mẹ thì muốn con học bài, có thể là khi mình là fan MU còn bạn là fan Liverpool hay cũng có thể là khi bạn muốn thuyết phục giám khảo của một kỳ thi rằng bạn đủ khả năng thi đỗ kỳ thi này. Quyết định cuối cùng có thể được đưa ra hoặc không nhưng điều quan trọng nhất là trong suốt quá trình giao tiếp đó, bạn thuyết phục được người đối diện tin vào, hoặc chí ít, chấp nhận cách suy nghĩ của cá nhân bạn. Đó chính là lập luận! Để có thể lập luận tốt, việc đầu tiên bạn cần làm là xác định rõ mục đích bạn lập luận, hay nói cách khác, bạn cần nắm được chủ đề chính của việc giao tiếp. Việc lập luận sẽ hoàn toàn mất đi giá trị, nếu bạn đi chệch hướng hay đưa vào những thông tin không liên quan tới điều mà bạn muốn. Ta có thể thấy điều này rõ hơn thông qua một số ví dụ ở phần tiếp theo. Sau khi đã xác định được chủ đề chính, bạn cần phải có cho mình một quan điểm với chủ đề đó. Trong bài viết này, mình bỏ qua quan điểm trung lập mà chỉ nhắc tới hai luồng quan điểm chính với mọi vấn đề trong cuộc sống: ủng hộ (dafür) và phản đối (dagegen). Nếu quan điểm của bạn là ủng hộ điều gì, xu hướng của bạn sẽ là đưa ra những lập luận bảo vệ ưu điểm của nó (PRO-Argumente) và ngược lại, dĩ nhiên sẽ là những lập luận nhấn vào nhược điểm của nó (KONTRA-Argumente). Nói đơn giản hơn, bạn hãy tìm ra những Vorteile hoặc Nachteile phù hợp với mục đích của mình! 2. Cấu tạo của một lập luận Thông qua định nghĩa phía trên, ta có thể hiểu rằng việc lập luận thực chất chính là đưa ra minh chứng cho một quan điểm. Chỉ có như vậy thì bạn mới có thể thuyết phục người khác tin vào những gì bạn nói hay viết ra. Một lập luận, vì vậy, sẽ bao gồm việc đưa ra một nhận định mang tính đánh giá hay khẳng định (These/Behauptung), sau đó bạn cần trả lời câu hỏi “tại sao bạn lại nhận định như vậy?” (Begründung) và cuối cùng bạn cần đưa ra những thông tin cụ thể để hỗ trợ cho nhận định cũng như lý do bạn đưa ra (Stützung des Arguments). Về cơ bản, chúng ta có rất nhiều cách để hỗ trợ cho một nhận định, nhưng để ứng dụng cho việc học tiếng Đức cũng như đơn giản hóa, các ví dụ sau đây sẽ chỉ đề cập đến duy nhất các ví dụ cụ thể (Beispiel). Từ đây, ta rút ra rằng, để một lập luận có thể được coi là hiệu quả, ta cần tối thiểu có 3 chữ B lớn, bao gồm: Behauptung, Begründung và Beispiel. Tùy vào mục đích của việc giao tiếp, ta cũng có thể đưa ra thêm hệ quả hay đánh giá chung về nhận định đó ở cuối cùng (Schlussfolgerung) Ta cùng tham khảo ví dụ sau đây: Người học cần phải trình bày quan điểm của mình về sự phổ biến của ô tô (Fragestellung: Äußern Sie Ihre Meinung zur Verbreitung von Autos). Giả sử, mình cho rằng, việc ô tô trở nên phổ biến là điều hoàn toàn có thể hiểu được, mô hình lập luận của mình sẽ trông như sau: Behauptung: Ich persönlich halte die Verbreitung von Autos für selbstverständlich,… Begründung: …, denn das Autofahren bietet sehr viele Vorteile. Beispiel: Mit einem eigenen PKW kommt man i.d.R. direkt von Haustür zu Haustür, und zwar sehr bequem, da kein Umsteigen notwendig ist. Ở một ví dụ khác: Người học cần phải đưa ra các hình thức khác nhau nhằm duy trì tình bạn (Freundschaften pflegen), một trong số đó là việc liên lạc với bạn thông qua Internet. Giả sử, mình thích hình thức này và muốn nói kĩ hơn về nó, mô hình lập luận của mình sẽ trông như sau: Behauptung: Die Kontaktpflege via Internet gewinnt in der heutigen Zeit sehr an Beliebtheit, insbesondere unter jungen Menschen. Begründung: Heutzutage besitzt fast jeder von uns ein Smartphone und das Internet ist rund um die Uhr verfügbar. Beispiel: Wenn ich plötzlich an meinen guten Freund denke, kann ich ihm jederzeit eine Nachricht schreiben. Schlussfolgerung (persönliche Empfindung): Es ist sehr einfach und schnell. 3. Hình thức lập luận Về cơ bản, chúng ta có 2 hình thức lập luận: Lập luận chủ động: Đây là hình thức chính được sử dụng nhiều nhất trong cuộc sống, và dĩ nhiên, trong phần thi nói và viết của các kỳ thi tiếng Đức. Đây chính là hình thức được đề cập ở phía trên, tức là người nói/viết có cho mình một quan điểm và tự chuẩn bị các ý tưởng, ví dụ để bảo vệ cho quan điểm đó. Lập luận chủ động chia ra làm 2 hình thức nhỏ hơn, cái này chắc hẳn nhiều bạn đã học trong chương trình môn Ngữ Văn ở phổ thông: Lập luận diễn giải (deduktives Argumentieren) và lập luận quy nạp (induktives Argumentieren). Điểm khác biệt duy nhất giữa 2 hình thức này là ở vị trí của lý do cho một nhận định. Lập luận diễn giải sẽ đưa ra lý do sau khi đưa nhận định (như các bạn nhìn thấy ở ví dụ phần 2), còn lập luận quy nạp sẽ đưa ra lý do trước khi đưa ra nhận định. Như vậy, ta cùng xem ví dụ về ô tô phía trên sẽ trông như thế nào dưới góc nhìn quy nạp nhé: Begründung: Das Autofahren bietet viele Vorteile,… Behauptung: …, weshalb ich die Verbreitung von Autos für selbstverständlich halte. Beispiel: Mit einem eigenen PKW kommt man i.d.R. direkt von Haustür zu Haustür, und zwar sehr bequem, da kein Umsteigen notwendig ist. Lập luận bị động: Ở hình thức này, người nói/viết sẽ chỉ đưa ra quan điểm với mục đích phản hồi lại một quan điểm từ người khác. Việc tuân theo mô hình, cũng vì vậy, mà có thể linh hoạt thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh. Tuy vậy, điều quan trọng nhất vẫn phải được giữ nguyên: luôn luôn ghi nhớ lý do tại sao chúng ta bắt đầu lập luận và hãy giữ bản thân bám chặt vào lý do đó! 4. Cách thức lập luận Như đã nhắc tới phía trên, có rất nhiều cách để lập luận một vấn đề, hay nói đúng hơn, để hỗ trợ cho một nhận định, không chỉ riêng ví dụ cụ thể. Lấy ví dụ người học đang muốn đưa ra quan điểm rằng người đi xe đạp nhất thiết phải đội mũ bảo hiểm, mình xin trình bày 5 cách thức lập luận như sau: A. Lập luận dựa vào ví dụ cụ thể Như đã thấy ở các phần trên, việc đưa ra ví dụ cụ thể là cách dễ nhất để hỗ trợ cho một nhận định. Trong vô số ví dụ có thể lựa chọn, ví dụ có sức nặng nhất chắc chắn là trải nghiệm của chính bản thân người viết/nói. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Beispiel: Ich hatte im Februar dieses Jahres einen Fahrradunfall mit einem Auto, bei dem ich eine Rolle vorwärts über den Lenker gemacht habe. Dank meines Fahrradhelms hatte ich trotz mehrerer Verletzungen am Körper keine Kopfverletzungen, die deutlich gefährlicher gewesen wären als mein Ellenbogenbruch. B. Lập luận dựa vào dẫn chứng đáng tin cậy Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình bằng sự thật, số liệu, dữ liệu, thống kê, các tài liệu khoa học hay các bộ luật. Ưu điểm của cách này là mức độ tin cậy rất cao, nhưng đòi hỏi người viết/nói phải có hiểu biết sâu rộng và chính xác về vấn đề. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Beleg: Eine Statistik einer Kölner Klinik hat bei zehn getöteten Radfahrern ermittelt, dass neun von ihnen noch leben würden, wenn sie einen Helm getragen hätten. C. Lập luận dựa vào logic Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình bằng những lý luận rõ ràng, dễ hiểu và dễ được chấp nhận bởi số đông. Đây là một trong những cách rất hữu ích khi muốn làm mới lập luận của bản thân. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Erläuterung: Wenn der Kopf bei einem Unfall auf eine harte Oberfläche prallt, kann sich der Radfahrer lebensgefährlich verletzen. D. Lập luận dựa vào trích dẫn Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình bằng trích dẫn từ một người có tiếng nói nhất định trong lĩnh vực mà bạn đang đề cập. Cách này đòi hỏi người viết/nói có trí nhớ đủ tốt để có thể vận dụng một cách chính xác. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Zitat: Laut Baden-Württembergs Verkehrsminister Winfried Hermann müsse jede Möglichkeit genutzt werden, um die Köpfe der Radfahrer vor schwerwiegenden Verletzungen zu schützen. Eine bessere Methode als den Helm kenne er nicht. Er sei das Schutzschild Nummer eins. E. Lập luận dựa vào tính tương đồng Bạn hỗ trợ cho nhận định của mình về một vấn đề bằng cách đưa ra sự so sánh với một vấn đề khác có tính chất tương tự. Cách này thoạt nhìn có vẻ giống như lập luận dựa vào logic, nhưng luận điểm được chọn ở đây cần cân nhắc kĩ hơn, đặc biệt là sự tương đồng với vấn đề ban đầu. Cùng tham khảo ví dụ sau: These: Fahrradfahrer sollten stets einen Fahrradhelm tragen,… Begründung: …, weil die Gefahr bei einem Unfall, schwer oder tödlich verletzt zu werden, mit Helm deutlich verringert wird. Analogie: Auch andere Verkehrsteilnehmer wie Motorrad- und Autofahrer schützen sich mit Helmen oder Gurt und Airbag vor schweren Verletzungen bei Unfällen Dĩ nhiên, nếu thời gian cho phép, không ai giới hạn số lượng cách thức lập luận các bạn có thể dùng cho cùng một nhận định. Chốt lại với ví dụ phía trên, ta có thể rút ra một kết luận cuối như sau: Daher ist eine gesetzliche Helmpflicht für Fahrradfahrer unbedingt erforderlich. Việc lập luận một vấn đề, trên thực tế, phức tạp hơn bài viết này của mình rất nhiều. Tuy nhiên, để dễ hiểu và dễ áp dụng hơn vào việc cải thiện kỹ năng nói và viết tiếng Đức, mình đã đơn giản hóa rất nhiều và thậm chí lược bỏ nhiều khái niệm hay của kỹ thuật lập luận. Hi vọng bài viết này của mình đã phần nào giúp các bạn cải thiện được việc lập luận và qua đó, đạt được kết quả tốt hơn! Chúc các bạn thành công! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Kĩ năng viết
Những bạn yêu thích sách chắc hẳn đều biết thứ mình đang muốn hướng tới, bởi vì các tác giả, các nhà văn đều là những bậc thầy trong việc mô tả. Trong mọi dạng văn bản, chúng ta thường xuyên phải mô tả một thứ gì đó. Đó có thể là một hành động, một sự vật, một sự việc hay một người nào đó. Dĩ nhiên, các công cụ để mô tả không chỉ hữu dụng khi viết, mà các bạn cũng có thể dùng chúng khi nói nữa. Tuy vậy, chúng ta có những công cụ đơn giản và hiệu quả hơn rất nhiều khi nói chuyện với nhau, đó chính là nét mặt và ngôn ngữ cơ thể. Những điều này sẽ không còn xuất hiện khi chúng ta viết nữa. Do đó, chúng ta cần mang đến cho người đọc thông tin một cách sáng tạo và sinh động, hay nói cách khác, chúng ta giúp người đọc vẽ một bức tranh trong tưởng tượng về thứ mà chúng ta muốn mô tả. 1. Sử dụng nhiều tính từ Tính từ là một công cụ tốt để nói về tính chất. Mình nhận thấy rằng người viết bài nói chung hiện nay chưa sử dụng được quá nhiều tính từ vì vốn tính từ của chúng ta còn khá hạn chế. Bên cạnh tính từ, đương nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng trạng từ và cả các cụm danh từ đi cùng giới từ nữa. Những công cụ này giúp chúng ta thêm vào bài viết rất nhiều màu sắc khác nhau, tùy thuộc mục đích người viết. Chúng ta cùng tham khảo ví dụ sau đây: Der Mann mit dem Hut stand auf und ging. Ở ví dụ này, chúng ta có thể thấy rằng người viết đã sử dụng cụm danh từ đi cùng giới từ “mit dem Hut” để cụ thể hóa về người đàn ông. Là người đọc, ta có thể hiểu rằng một người đàn ông cụ thể nào đó (người đội chiếc mũ) đã đứng lên và rời đi. Tuy vậy, cách viết như trên chưa mang lại cho ta quá nhiều thông tin và cũng chưa giúp ta hình dung ra tình huống được mô tả một cách sinh động nhất. Cùng tham khảo ví dụ tiếp theo: Der alte Mann mit dem roten Hut stand verärgert auf und ging schnell zur Tür. Giờ hãy cùng nhìn xem mình đã thêm những từ gì vào đây. Đầu tiên là tính từ “alt”. Mình mang đến cho người đọc thông tin cụ thể hơn về người đàn ông được nhắc tới. Ông ấy không phải một cậu thanh niên, không phải một người trung niên, mà là một người lớn tuổi. Qua đó, người đọc sẽ có một góc nhìn riêng ngay lập tức về người đàn ông này, bởi vì rõ ràng ta luôn đánh giá người trẻ và người già trên những góc nhìn khác nhau. Sau đó là tính từ “rot” chỉ với tác dụng làm rõ ràng hơn nữa về chiếc mũ mà người đàn ông đang đội, hay nói cách khác là mình đang tô màu cho bức tranh đen trắng trong tưởng tượng của người đọc. Tiếp theo là tính từ “verärgert” giúp người đọc hiểu được cách mà người đàn ông đó đứng lên cũng như giúp cho việc hình dung ra hoàn cảnh của sự việc một cách rõ ràng hơn. Tính từ “schnell” mang lại hiệu quả tương tự như “verärgert” nhưng là đối với hành động đi của người đàn ông. Và cuối cùng là cụm danh từ đi cùng giới từ “zur Tür” cũng mang đến cho chúng ta thêm thông tin và làm hoàn thiện bức tranh trong tưởng tượng của người đọc. 2. Giúp khơi dậy các giác quan Khá tương tự với công cụ đầu tiên, công cụ thứ 2 này cũng góp phần mang lại thông tin cụ thể hơn cho người đọc. Tuy nhiên, ngoài việc làm phong phú thêm bức tranh trong tưởng tượng, ta giúp thêm vào các nguyên liệu khác như mùi, vị hay âm thanh. Ta cùng xem xét ví dụ sau đây: Die Kleidung war schmutzig. Tính từ “schmutzig” chỉ mang lại thông tin tối thiểu về tình trạng của quần áo mà thôi. Giả sử điều chúng ta muốn hướng đến là mô tả quần áo của một người vô gia cư, vừa ngủ vài đêm ở ngoài đường, tính từ trên rõ ràng là không đủ để người đọc hình dung ra điều đó. Thay vào đó, chúng ta có thể mô tả như sau: Die Kleidung war mit braunen Flecken und Staub bedeckt. Sie verströmte einen stechenden Geruch nach altem Schweiß. Với việc thêm vào cụm “mit braunen Flecken und Staub”, ta làm rõ hơn khái niệm “schmutzig”. Sau đó mình đi thêm một bước với câu thứ 2 để tạo ra cảm giác về mùi đối với người đọc. Việc này không nhất thiết lúc nào cũng phải được thực hiện, nhưng nếu các bạn muốn người đọc cảm nhận rõ ràng hơn dưới các khía cạnh khác nhau, đây là một công cụ tốt để làm điều đó. 3. Sử dụng biện pháp so sánh So sánh là một biện pháp khá đơn giản nhưng mang lại hiệu quả rất tốt. Về cơ bản, ta sẽ dùng biện pháp này để so sánh hai khái niệm hoàn toàn không liên quan đến nhau. Tuy vậy, hai khái niệm này lại mang lại cùng một tác động nhất định nào đó đến người đọc, giúp người đọc liên tưởng về khái niệm được so sánh một cách sinh động và rõ ràng hơn. Biện pháp so sánh được sử dụng với 2 từ dẫn là “wie” và “als”. Ta cùng tham khảo ví dụ sau đây: Er hatte nach seiner Knieverletzung starke Schmerzen und weinte laut. Thông tin được mang lại ở đây khá đầy đủ và dễ hiểu, nhưng hành động chính được miêu tả khá nhàm chán (anh ấy khóc to). Thay vào đó, biện pháp so sánh sẽ giúp cho hành động chính trở nên sinh động hơn như sau: Er hatte nach seiner Knieverletzung starke Schmerzen und schrie wie am Spieß. Cụm từ “wie am Spieß schreien” (hét lên như bị giáo đâm) được sử dụng với ý nghĩa tương tự như trên, tuy vậy sinh động hơn nhiều so với việc sử dụng cụm từ “laut weinen”. 4. Sử dụng biện pháp ẩn dụ Khá tương tự với so sánh, ẩn dụ giúp cho người đọc dễ liên tưởng và kết nối một sự vật hay sự việc này với một sự vật hay sự việc khác có nét tương đồng. Điểm khác biệt duy nhất là thay vì sử dụng từ so sánh (như “wie” hay “als”), ta trực tiếp khẳng định nét tương đồng đó. Ta cùng nhau xem ví dụ sau đây: Was du erzählst, ist nicht mehr von Interesse. Để hình tượng hóa khái niệm “nicht mehr von Interesse sein”, người Đức dùng một hình ảnh ẩn dụ như sau: Was du erzählst, ist doch Schnee von gestern. 5. Sử dụng tính tương tự Tính tương tự của sự việc (Analogie) về cơ bản khá giống với biện pháp so sánh và ẩn dụ. Điểm khác biệt ở đây là ta sử dụng biện pháp này để giải thích một sự vật, sự việc phức tạp và khó hiểu bằng một sự vật, sự việc tương tự như vậy nhưng đơn giản và dễ hiểu hơn. Biện pháp này thường xuyên được sử dụng khi ta nhắc đến những khái niệm mang tính hàn lâm, chuyên ngành, nhằm giúp người đọc tiếp cận những khái niệm đó một cách hiệu quả hơn. Ta cùng xem ví dụ sau: Es ist schwierig, eine Idee schriftlich klar zum Ausdruck zu bringen. Es ist, als würde man versuchen, ein Foto aus dem Kopf des Autors zu kopieren und es in den Kopf des Lesers einzufügen. Ở đây, tính tương tự được sử dụng để làm người đọc dễ hình dung về mức độ khó của việc truyền tải ý tưởng thông qua việc viết lách. Rõ ràng là ta biết điều đó rất khó, nhưng với việc mô tả nó thông qua hành động “copy một bức ảnh từ suy nghĩ của người viết và cố gắng dán nó vào tâm trí người đọc”, ta làm cho sự khó khăn đó dễ hiểu hơn (chắc hẳn bất cứ ai sử dụng hệ điều hành tiếng Đức cũng biết “kopieren-einfügen” chính là khái niệm “copy-paste” quen thuộc). Hi vọng thông qua bài viết này, mình đã giúp các bạn hiểu rõ hơn một chút về kĩ năng mô tả khi viết bài. Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
*Bài viết mang quan điểm cá nhân của tác giả* “Đối với mình, một người viết bài tốt không phải là một người viết được nhiều nhất những thứ mà người khác không biết, mà là một người sử dụng hiệu quả nhất những thứ mà hầu như ai cũng biết” Không chỉ riêng đối với tiếng Đức, việc soạn thảo một văn bản bất kì (ngoại trừ tin nhắn dùng cho việc nói chuyện với bạn bè, người thân,…) luôn là một thử thách cho hầu như tất cả mọi người, dù là bằng tiếng mẹ đẻ hay bằng một ngoại ngữ khác. Ở bài viết này, chúng ta sẽ cùng thảo luận xem, làm thế nào để có thể viết tiếng Đức tốt hơn. Về cơ bản, một bài viết tốt là một bài viết để cho người khác có thể ĐỌC ĐƯỢC. Điều này nghe qua có vẻ hết sức hiển nhiên, thậm chí hơi buồn cười. Tuy vậy, dù đã rất cố gắng, rất nhiều người viết tiếng Đức vẫn chưa thể thoát khỏi suy nghĩ “nâng tầm” bài viết thông qua từ vựng khó/hiếm hay những cách diễn đạt dài dòng và phức tạp. Sau đây, mình xin phép chỉ ra 6 điểm mình cho là quan trọng nhất khi viết một văn bản bất kì bằng tiếng Đức. 1. Dễ hiểu Điều đầu tiên và cũng là quan trọng nhất đối với mình chính là những thứ bạn viết ra cần phải dễ hiểu. Cái khó ở đây là: các bạn cần phải viết vừa đủ ngắn và đơn giản để khiến người đọc dễ dàng hiểu được điều bạn truyền tải, nhưng cũng phải vừa đủ dài để bài viết của bạn không bị đơn điệu quá mức. Sẽ rất khó để có thể đưa ra một số lượng từ vựng chung cho mọi trình độ, do mỗi trình độ sẽ luôn có những tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá. Tuy nhiên, ở mức độ sử dụng tiếng Đức như là ngoại ngữ (Deutsch als Fremdsprache), mình khuyên các bạn nên viết câu với độ dài trong khoảng từ 15-25 từ. Các bạn nên tránh sử dụng những từ đệm trong văn nói (mal, nun, einfach, doch,…). Ngoài ra, hãy cố gắng xây dựng nội dung chính trước tiên bằng ngôn ngữ cụ thể và trực diện nhất, đừng quá tham lam thêm vào quá nhiều thành phần bổ trợ trong một câu. Tiếng Đức bản thân nó đã khiến cho việc đọc hiểu trở nên khó khăn hơn các thứ tiếng khác (Nebensatz, trennbare Verben,…). Vì vậy, hãy cố gắng đừng gây thêm khó khăn cho người đọc nữa nhé các bạn! 2. Dễ đọc Điều tiếp theo và cũng quan trọng không kém, đó là bài viết cần phải dễ đọc. Và để làm được điều này, bài viết trước tiên phải không được mắc những lỗi cơ bản như: lỗi ngữ pháp, lỗi viết sai chính tả, lỗi sắp xếp trật tự các thành phần trong câu hay đơn giản là vi phạm quy tắc sử dụng dấu phẩy. Ngoài ra, việc lạm dụng danh từ hay các cụm Nomen-Verb-Verbindungen quá mức cũng là một tác nhân gây khó khăn cho việc đọc hiểu. Tùy vào đối tượng đọc bài viết của bạn cũng như mục đích của bài viết mà các bạn cũng nên chọn từ vựng cho phù hợp. Một ví dụ hết sức cụ thể ở bài thi tiếng Đức trình độ B2 của Goethe Institut: Rất nhiều bạn khi thi viết luôn cố gắng sử dụng những từ ngữ chuyên ngành cực khó và hiếm gặp. Việc sử dụng những từ này tuy không sai về mặt ngôn ngữ, nhưng lại sai ở việc hướng tới đối tượng người đọc, dù giám khảo có giỏi tiếng Đức mức nào hay thậm chí là người Đức. Hãy thử tưởng tượng nếu bạn không học kĩ thuật, cũng không thích kĩ thuật, mà phải đọc những cụm từ tiếng Việt kiểu như “tế bào quang điện” hay là “điện thế đẳng áp” thì bạn có hiểu gì không? Ngoài những điểm đã nêu ở trên, một bài viết dễ đọc còn là một bài viết sử dụng phong cách viết năng động, tươi mới. Đừng chỉ phân tích suông và dùng toàn các cấu trúc mang tính bị động để viết bài. Hãy đưa thêm vào nhiều hơn những câu mang tính chủ động, những nhận định, những câu hỏi mở, câu hỏi tu từ,… để làm bài viết sống động và sát với thực tế hơn. Hơn thế, việc kết hợp phong cách viết pha trộn giữa phân tích và nhận định cá nhân sẽ làm cho quan điểm của bài viết trở nên khách quan, và do đó, thuyết phục hơn. 3. Công thức AIDA AIDA là một từ ghép từ 4 từ tiếng Anh (Attention – Interest – Desire – Action), có nghĩa là: Thu hút – Thích thú – Khao khát – Hành động. Công thức AIDA được sử dụng rộng rãi trong tiếp thị và quảng cáo để mô tả các bước hoặc giai đoạn xảy ra từ thời điểm người tiêu dùng nhận thức được sản phẩm hoặc thương hiệu, trước khi họ thử sản phẩm hoặc đưa ra quyết định mua hàng. Thế nó có tác dụng gì trong một bài viết? Một yếu tố mà người viết thường bỏ qua đó là yếu tố cảm xúc của người đọc. Đừng chỉ quan tâm đến ngôn ngữ hay nội dung đơn thuần. Hãy khiến cho người đọc cảm thấy tò mò và thú vị bởi một đoạn mở bài đặc sắc, hãy khiến người đọc phải bật lên tiếng “Aha…” khi đọc bài của bạn và hãy là chính bạn, chứ đừng chỉ đi bắt chước người khác! Đối với mình, việc các bạn đưa vào bài viết những ý tưởng độc đáo hay những chi tiết tưởng tượng mới lạ cũng có giá trị không kém gì việc các bạn viết bài dựa trên lý thuyết lập luận cổ điển (chẳng hạn như việc sử dụng phép so sánh, ẩn dụ hay đưa các ví dụ dẫn chứng…). Nói đến đây, mình muốn đưa thêm một ví dụ nữa về quá trình đọc bài viết của các bạn ôn thi các kì thi B1 và B2, mục đích của hầu hết người học tiếng Đức tại Việt Nam. Có phải các bạn cũng đang như vậy hay không? Có phải các bạn cũng đang viết một đoạn mở bài “trăm lần như một” chép ra từ một quyển sách hay bắt chước từ một người cụ thể nào đó không? Nếu có thì đây chính là lúc để các bạn thay đổi rồi đấy! 4. Sợi chỉ đỏ Ở Đức, người ta có một khái niệm gọi là “der rote Faden” (sợi chỉ đỏ). Sợi chỉ đỏ được hiểu là một thứ dùng để dẫn đường xuyên suốt, có ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn trong một quá trình nào đó (giống với khái niệm “Mặt trời chân lý chói qua tim” trong thơ Tố Hữu xD). Khái niệm này cũng được người Đức sử dụng trong việc đánh giá bài viết, đặc biệt là những bài viết dài và mang tính hàn lâm cao. Càng viết dài và phức tạp, chúng ta càng cần có một cấu trúc bài viết cụ thể và khoa học để giúp cho người đọc không cảm thấy mất phương hướng sau khi đọc một loạt các nội dung liên tiếp. Để làm được điều này, hãy luôn luôn viết ra một “bản tóm tắt” ngắn tất cả các ý lớn mà bạn muốn viết, đồng thời phân tích các ý này ở dạng “từ khóa”. Công việc này tuy đơn giản, nhưng giúp chúng ta không sa đà vào những chi tiết không cần thiết. Hơn thế nữa, việc này còn giúp chúng ta biết được lỗ hổng trong lập luận hay trong kiến thức của mình nằm ở đâu để khắc phục, trước khi bắt tay vào viết từng câu cụ thể. 5. Những thứ quan trọng nhất luôn nằm phía trước! Theo các bạn, nhiệm vụ của một người viết bài là gì? Mình tin rằng, rất nhiều những kiến thức, thông tin mà các bạn mang lại cho người đọc cũng có thể được tìm thấy đâu đó ở nơi khác, trong một bối cảnh khác, với độ dài và phức tạp khác. Vậy tại sao chúng ta vẫn viết? Bởi vì nhiệm vụ của người viết là chọn lọc thông tin và đưa đến cho người đọc những thông tin phù hợp với nhu cầu của họ. Do đó, hãy luôn luôn đưa những thứ quan trọng nhất trong một bài viết lên phía trước. Điều này giúp người đọc nhanh chóng nắm được mục đích viết bài của bạn và có thể lựa chọn một góc nhìn hợp lý cho những luận điểm, phân tích của bạn ở các đoạn tiếp theo. 6. Những thứ hay nhất luôn nằm cuối cùng! Đương nhiên là bài viết nào cũng cần có một cái kết. Theo như mình quan sát, hầu hết các bạn chọn cách kết bài khá ngắn gọn bằng một câu tóm tắt hoặc chỉ đơn giản là tổng hợp lại các ý chính đã được nhắc đến trong bài. Điều này tuy không sai, nhưng như đã nói, nó quá đơn điệu và trở nên nhàm chán trong mắt người đọc, đặc biệt là các giám khảo chấm thi. Tương tự như mục 3, các bạn có thể đưa vào những ý tưởng mới mẻ để khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc. Cá nhân mình thì rất thích kết bài bằng cách tận dụng yếu tố “sợi chỉ đỏ”. Có nghĩa là mình sẽ đưa ra ở phần mở bài một yếu tố tạo liên kết và lặp lại/triển khai yếu tố đó ở phần kết bài. Một ví dụ đối với bài thi trình độ B2 của Goethe Institut, phần thi viết Forumsbeitrag: Mở bài: Thường các chủ đề của Forumsbeitrag đều là các vấn đề xã hội. Do đó, chúng ta có thể dùng cách đặt ra câu hỏi mở, kiểu như: “Câu hỏi đặt ra là, liệu sử dụng túi nylon có thật sự hợp lý hay không?” Kết bài: Sau khi phân tích và tổng hợp ý chính, chúng ta có thể nhắc lại hoặc trả lời câu hỏi ở phần mở bài. Ví dụ như: “Câu hỏi ở phần mở đầu như vậy đã có đáp án. Rõ ràng chúng ta không nên tiếp tục sử dụng túi nylon…” Nói tóm lại, cả 6 ý mình nêu ở trên đều dẫn tới cùng một hành động khi viết bài: Hãy luôn luôn đặt mình vào vị trí người đọc! Chỉ khi đó, các bạn mới có thể thật sự thoát khỏi những lo sợ rằng “Bài viết của tôi chưa tốt do tôi còn kém, do chưa đủ phức tạp, tôi còn biết ít từ,…”. Đối với mình, một người viết bài tốt không phải là một người viết được nhiều nhất những thứ mà người khác không biết, mà là một người sử dụng hiệu quả nhất những thứ mà hầu như ai cũng biết. Chúc các bạn thành công với các bài viết của mình! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Sau khi đã xem rất rất nhiều bài viết được gửi về page, tôi rút ra một kết luận như sau: Phần đông các bạn học tiếng Đức hiện nay chưa hiểu lắm về cách viết của người Đức. Ở bài viết này, tôi không muốn đề cập đến các vấn đề ngữ pháp, chọn từ hay là những vấn đề quá cao siêu như là „Trình độ tầm B,C thì phải viết kiểu này!“. Thay vào đó, tôi muốn đề cập đến những sai lầm mà các bạn thường gặp phải khi hình thành một câu cũng như phương án tôi gợi ý để giúp các bạn tránh mắc phải những sai lầm đó. Bài viết dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả và hướng đến đối tượng là những bạn học „Deutsch als Fremdsprache“ nên sẽ không thể đảm bảo tính khách quan và tổng quát. 1. Vấn đề với thành phần thứ hai của một động từ: Trong tiếng Đức, có rất nhiều trường hợp mà một hành động (Prädikat) được cấu thành bởi nhiều thành phần và một trong số đó sẽ bị tách ra và xuất hiện ở cuối câu. Ich fange heute mit dem Lernen an. Ich habe heute die Hausaufgaben gemacht. Ich wurde von dem Hauptbahnhof abgeholt. Rõ ràng, chúng ta cảm thấy khá dễ chịu khi đọc những câu trên. Thế còn một câu như thế này thì sao? Ich bin, nachdem ich meine Sachen gepackt und mein Auto getankt hatte, mit meinen Freunden, dem Onkel meiner Tante und dem Dackel von nebenan auf der Laderampe eines verrosteten Pickups gefahren. Tổng cộng là 28 từ cho đến khi người đọc biết cụ thể thành phần chính của câu là gì. Không ai muốn đọc hết cả một đống thông tin bổ trợ, quên quá nửa rồi, mới đọc đến hành động chính của câu, phải không? Giải pháp: Hãy cố gắng viết không quá 10 từ ở giữa 2 thành phần của Prädikat! Với các bạn trình độ cao hơn và buộc phải viết 1 câu dài hơn, hãy cố gắng nghĩ đến cảm nhận của người đọc và tìm cách khác để diễn đạt hoặc đơn giản là cắt ngắn ý dài của các bạn ra cho dễ nhìn nhé! 2. Vấn đề với độ dài và phức tạp của câu: Có hai kiểu người viết bài: Kiểu thứ nhất là những người viết với mong muốn người đọc hiểu được mình muốn thể hiện điều gì. Kiểu thứ hai là những người viết với mong muốn gây ấn tượng với người đọc bằng những từ/cụm từ khó và cách viết phức tạp. Với tâm lý học để thi rất phổ biến ở Việt Nam, rất nhiều bạn, theo tôi thấy, đang rơi vào kiểu thứ hai. Nếu bạn là một người đang cần học gấp để thi cho xong, tôi khuyên bạn nên dừng đọc ở đây! Đây là ví dụ được trích từ một bài viết tôi từng chữa: Als begeisterte Reisende bin ich persönlich den Fluggesellschaften dankbar dafür, dass sie sich in die Lage der Kunden hineinversetzt haben, daher bieten sie uns viele Billigfluglinien an, mit denen wir viele Chancen haben, die Welt zu entdecken. Cảm giác đầu tiên của tôi là quên béng đoạn đầu nói về cái gì khi đọc đến những chữ cuối cùng. Tôi đã chữa lại câu trên như thế này: Als eine begeisterte Reisende bin ich den Fluggesellschaften sehr dankbar dafür, dass sie stets an Kunden denken. Daher bieten sie uns viele Billigfluglinien an, mit denen wir mehr Chancen zur Weltentdeckung haben. Nếu để tôi tự viết câu này, thậm chí tôi còn viết khác hơn nữa: Den Kundenservice der Fluggesellschaften halte ich für ausgezeichnet. Für sie stehen Kundenwünsche stets im Vordergrund. Daher stehen die sogenannten „Billigfluglinien“ seit einer Weile zur Verfügung. Mit diesen Angeboten kann man die Weltentdeckung sicherlich besser realisieren. Giải pháp: Nếu bạn viết 1 câu mà bạn không thể đọc nó trong vòng một hơi thở thì chắc chắn là câu đó quá dài rồi. Thành thật mà nói, dù là đi thi thì giám khảo chấm thi cũng là con người và họ cũng có tâm trạng. Đừng để họ phải vắt óc suy nghĩ xem: „Cô/cậu này đang viết cái gì đây vậy nhỉ?“! Điều đó chỉ làm ảnh hưởng đến điểm số cuối cùng của các bạn mà thôi! Hơn nữa thì, theo kinh nghiệm của tôi, người Đức chuộng sự đơn giản và chính xác, hơn là dài dòng và văn hoa. Thế nên, lời khuyên của tôi là hãy suy nghĩ đơn giản thôi và hãy viết giống như khi bạn nói ấy! (ý tôi là độ dài thôi nhé) 3. Vấn đề với những thành phần bổ trợ: Tiếng Đức có những công cụ tuyệt vời giúp ích cho việc phá đám việc đọc hiểu của người đọc. Hãy lưu ý rằng, những thứ „đúng ngữ pháp“ thì chưa chắc đã hợp lý hoàn toàn đâu nhé! Những ví dụ mà các bạn đều biết đó là những từ như „neben“, „obwohl“ hay „nachdem“. Để hiểu rõ hơn ý của tôi, hãy cùng tham khảo ví dụ sau đây: Neben den vielen kleinen Tätigkeiten, die ab und wann mal für den Hausmeister während seiner Nachtschicht anfielen, obwohl nachts eigentlich nicht so viel los war, spielte er gerne Karten. Như các bạn có thể thấy, cái mà người viết muốn hướng tới phải đọc đến tít cuối câu mới thấy, và nó chỉ ngắn gọn là „Der Hausmeister spielte gerne Karten“!! Dưới đây là một ví dụ khác đơn giản hơn một chút: Nachdem Kobe sein Abitur gemacht hatte, zog er nach Deutschland Trông thì có vẻ không có vấn đề gì lắm nhưng tốt hơn nên viết là: Kobe machte sein Abitur und zog nach Deutschland Giải pháp: Ở Việt Nam, chúng ta đã quá quen với việc „rào đón“ kĩ lưỡng, trình bày hết thiệt hơn, rồi mới đi vào vấn đề chính. Ngược lại, người Đức thích đi thẳng vào vấn đề trước, rồi tất cả những thứ dùng để diễn giải, bổ trợ sẽ được trình bày sau. Thế nên, các bạn hãy tập cách diễn đạt „direkt auf den Punkt“ nhé! 4. Vấn đề với câu phụ (Nebensatz): Khi học tiếng Đức đến một trình độ nhất định, hẳn các bạn sẽ được nghe những lời khuyên kiểu như: „Tầm này rồi phải cố mà viết Nebensatz đi chứ ai lại viết Hauptsatz nữa!“. Đúng vậy, Nebensatz là một đặc sản thực sự của tiếng Đức! Làm thế nào người ta có thể nghĩ ra việc vứt động từ xuống cuối câu được cơ chứ? Thật sự, bản thân tôi cũng đã từng rất tự hào khi có thể nói được đúng Nebensatz mà không cần ngập ngừng suy nghĩ nhiều. Tuy nhiên, có thật là chỉ có sử dụng Nebensatz mới chứng minh được trình độ tiếng Đức của chúng ta hay không? Hãy cùng tham khảo ví dụ sau đây: Wissen ist nicht genug; wir müssen es anwenden. Der Wille ist nicht genug; wir müssen handeln. Vâng, đó là 4 Hauptsätze liên tiếp thưa các bạn. Rất rõ ràng, rất dễ đọc! Và đoạn trích trên được viết bởi đại văn hào Đức Johann Wolfgang von Goethe, cái người được lấy cảm hứng đặt tên cho chỗ các bạn học tiếng Đức đấy! Theo tôi, chúng ta chỉ dùng Nebensatz khi muốn đưa ra những thông tin bổ sung, chứ không phải là để đưa ra thông tin chính. Ví dụ như câu sau đây: Ich wünsche mir, dass ich dich bald wiedersehen kann. Theo tôi thì nên viết là: Ich wünsche mir, dich bald wiederzusehen. Giải pháp: Put some respect on the “Hauptsatz”!! Hãy kiểm tra lại sau khi viết xem, có chỗ nào có thể trình bày ngắn gọn và trực tiếp hơn được không? Như đã nói ở trên, nhiều khi đơn giản hóa mọi thứ lại giúp các bạn đến gần với văn phong tiếng Đức hơn đấy! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Hà Phương + Bích Diệu
Phân tích biểu đồ là phần thi phổ biến trong các kì thi chuẩn hóa như Goethe Zertifikat C1, TestDaF hay DSD. Hôm nay, chúng mình xin giới thiệu đến các bạn những mẫu câu điển hình được sử dụng để phân tích biểu đồ cũng như một vài ví dụ về việc phân tích các dạng biểu đồ khác nhau nhé! A – PHẦN MỞ ĐẦU – EINLEITUNG 1. Was ist der Titel oder Inhalt der Grafik? Das Diagramm zeigt … Die Grafik stellt … dar. Die Tabelle / Das Schaubild / Die Grafik zeigt, dass / wie … Die vorliegende Grafik / Die Tabelle / Das Schaubild / Die Statistik / Das Diagramm gibt Auskunft über … In der Grafik geht es um … Das Thema der Grafik / des Schaubildes ist … Aus der Statistik ist zu ersehen, dass / wie … Dem Schaubild ist zu entnehmen, dass / wie … Das Schaubild stellt … dar. Das Schaubild stellt dar, wie … Was das Schaubild zeigt, ist … Aus dem Diagramm geht hervor, dass / wie … Aus der Tabelle ergibt sich, dass … 2. Wann wurden die Daten erhoben und wie werden sie dargestellt? Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf das Jahr / die Jahre … Die Angaben sind in … (Euro, Prozent, Kilo usw.) Die Werte sind in … angegeben. Die Daten stammen aus dem Jahr … Die Angaben basieren auf einer repräsentativen Umfrage unter …, die in der Zeit vom … bis zum … durchgeführt wurde. Als Basis für den Index wurde das Jahr …. ( = 100 %) gewählt / festgesetzt. 3. Woher stammen die Daten? Die Daten stammen von … / aus einer Umfrage von … Das Schaubild wurde vom … erstellt / herausgegeben. Die Grafik wurde dem / der … entnommen. 4. Wer hat die Daten erhoben? Die Quelle des Schaubildes / der Grafik / des Diagramms ist … Die Zahlen legte (das Statistische Bundesamt, das Institut für …) vor. B – PHẦN THÂN BÀI: MIÊU TẢ VÀ PHÂN TÍCH – BESCHREIBUNG UND ERKLÄRUNG 5. Beschreiben: Aus dem Schaubild geht hervor (geht nicht hervor), dass … Es fällt auf, dass … Es ist interessant, dass … Auffällig ist, dass … Überraschend ist, dass … Erklären lassen sich diese Zahlen möglicherweise mit … Mit / In der Abbildung / Grafik / dem Schaubild soll gezeigt werden, dass … Wie die Tabelle zeigt, … Der Tabelle lässt sich entnehmen, dass … Die Verteilung der Werte für die einzelnen Gruppen / Kategorien ist äußerst uneinheitlich / einheitlich. Als Haupttendenz lässt sich feststellen / erkennen, dass … Es lässt sich eine deutliche Tendenz in Richtung … erkennen. Auf der X / Y-Achse sieht man … 6. Reihenfolge: An erster / zweiter / dritter / … / letzter Stelle steht … Auf dem ersten Platz steht … Den ersten / … Platz belegt … Die erste /… Stelle nimmt … ein. Dann / Danach folgt … mit … Letzter ist … Das Schlusslicht bildet … 7. Entwicklung: Der Anteil / Die Zahl der … ist von (Jahr) / im Jahre … auf … gestiegen / angestiegen / angewachsen / gesunken / zurückgegangen. Der Anteil von der … ist um fast/ mehr als … % gestiegen / gesunken. Die Zahl der … hat sich zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% erhöht / verringert. Die Zahl der … hat zwischen (Jahr) und (Jahr) um …% zugenommen / abgenommen. In den vergangenen … Jahren steigerte / erhöhte / verringerte sich die Zahl der … um …% Im Zeitraum von … bis… hat sich die Zahl der … fast / mehr als verdoppelt / verdreifacht / vervierfacht. 8. Vergleich: Im Vergleich zu … ist die Zahl der … um …% höher/ niedriger. Im Gegensatz / Im Unterschied zu … ist der Anteil der … um …% gefallen/ gestiegen. Verglichen mit … hat sich die Zahl (von … / der …) um …% gesteigert / verringert. Der Anteil der … ist geringer / höher als der bei … Während … um … stieg, ist … um … gesunken. Für die Gruppe der … ist … wichtiger / bedeutender als für die Gruppe der … Gegenüber … ist … Im Gegensatz/ Unterschied zu … liegt … deutlich höher/ niedriger als … Erwirtschaftete / Erzielte (Jahr) ein Arbeitnehmer eine/n … von …, so kam er (Jahr) bereits auf eine/n … von … . Gaben (Jahr) noch …% der Befragten an, dass sie …, waren es (Jahr). nur noch … C – KẾT LUẬN – KOMMENTARE UND SCHLUSSFOLGERUNGEN. Abschließend kann man feststellen, dass … in den letzten Jahren tendenziell steigt / sinkt. Die Grafik zeigt deutlich den kontinuierlichen Rückgang / Anstieg … In Bezug auf den Zeitraum kann gesagt werden, dass…. Es fällt auf / Es ist unverkennbar / Überraschend ist, dass … Leider kann man nicht deutlichen sehen, dass … Aus der Grafik geht leider nicht hervor, wie … Aus dem präsentierten Datenmaterial lässt sich nicht ersehen, ob / wie… In Bezug auf mein Heimatland sind ähnliche / unterschiedliche Tendenzen zu sehen. Auch in meinem Heimatland würde die Grafik / Tabelle / das Diagramm ähnlich aussehen. >>> Động từ nói về sự tăng trưởng: sich erhöhen, sich steigern, ansteigen, erhöhen, steigen, zunehmen, zulegen, steigern, usw. >>> Động từ nói về tình trạng suy thoái, giảm sút: sich verringern, sich vermindern, abnehmen, fallen, schrumpfen, sinken, senken, reduzieren, usw. CÁC VÍ DỤ CỤ THỂ – BEISPIELE Beispiel 1: Die Grafik zeigt die Entwicklung der Lebenserwartung der Deutschen von 1910 bis heute. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1910, 1932, 1960 und heute. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt und wurden in vier unterschiedlichen Zeiträumen erhoben. Die Lebenserwartung wird in Form von Säulen dargestellt. Es gibt immer zwei Säulen pro Zeitraum, eine blaue und eine rote Säule. Rot ist für die Lebenserwartung der Frauen und blau ist für die Männer. Es lässt sich eine deutliche Tendenz erkennen: Die Deutschen werden immer älter. Am Anfang des letzten Jahrhunderts wurden die deutschen Männer nur ungefähr 45 Jahre alt und die Frauen nur ca. 48 Jahre alt. Heute werden sie fast doppelt so alt. Die Frauen in Deutschland werden im Durchschnitt knapp 82 Jahre alt und die Männer ungefähr 76 Jahre alt. Wie die Tabelle auch zeigt, werden Männer, die 1932 geboren wurden, ungefähr 60 Jahre und die Frauen ungefähr 63 Jahre alt. Männer, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits fast 7 Jahren älter. Die Frauen, die 30 Jahre später geboren wurden, werden bereits 10 Jahre älter. Insgesamt wird deutlich, dass die Frauen im Durchschnitt älter werden als die Männer. Es ist auch zu erkennen, dass es sich um Durchschnittszahlen handelt. Meine Großeltern zum Beispiel wurden ungefähr 1920 geboren und sind bereits fast 90 Jahre alt – also älter als der Durchschnitt von denen, die heute geboren werden. Beispiel 2: Der Titel der Grafik heißt Einwohner je Arzt und Zahnarzt. In der Grafik kann man sehen, wie viele Einwohner ein Arzt bzw. ein Zahnarzt in den unterschiedlichen Zeiträumen im Durchschnitt betreut. Die Angaben in der Grafik beziehen sich auf die Jahre 1970, 1980, 1991, 2000 und 2003. Sie sind in absoluten Zahlen dargestellt. Es ist ein Säulendiagramm. Für die Zeiträume gibt es jeweils 2 unterschiedliche Säulen. Die hellblaue Säule stellt die Anzahl der Einwohner pro Zahnarzt dar und die andere, die dunkelblaue Säule, stellt die Anzahl der Einwohner pro Arzt dar. Die Daten stammen vom Statistischen Bundesamt. Man kann eine deutliche Tendenz erkennen. Der Anteil der Einwohner pro Arzt ist von 1970 bis 2003 gesunken. Das bedeutet, dass es immer mehr Ärzte und Zahnärzte in der Bundesrepublik Deutschland gibt. Es kann auch bedeutet, dass die medizinische Versorgung in Deutschland von 1970 bis 2003 besser geworden ist. Ein Arzt musste 1970 im Durchschnitt 615 Einwohner versorgen. Im Jahre 2003 musste er nur noch weniger als die Hälfte versorgen, nämlich 271 Personen. Der Anteil ist also um fast 56 Prozent gesunken. Im Gegensatz dazu muss ein Zahnarzt 2003 noch rund 1280 Personen betreuen. Das entspricht einem Rückgang von fast 40 Prozent. Im Allgemeinen kann man sagen, dass es immer mehr Ärzte als Zahnärzte gegeben hat. Beispiel 3: Das Schaubild zeigt den Anteil der Privatschulen im Jahre 2008. Die Daten wurden vom Statistischen Bundesamt erhoben und werden in Prozent dargestellt. Man sieht sechs Säulen mit 2 unterschiedlichen Farben bzw. Mustern. Die Muster stehen für allgemeinbildende Schulen und berufliche Schulen. Die Säulen für die beruflichen Schulen sind schräg gestreift und die Säulen für die allgemeinbildenden Schulen haben ein Karo-Muster. Von allen privaten Schulen in Deutschland haben im Jahr 2008 rund drei Fünftel zu den allgemeinbildenden Schulen und die restlichen zwei Fünftel zu den beruflichen Schulen gehört. Man kann auch drei Kategorien erkennen: Deutschland, frühes Bundesgebiet und neue Länder. Für Gesamtdeutschland sieht man, dass ca. 9 Prozent der allgemeinbildenden Schulen und mehr als doppelt so viele Berufsschulen Privatschulen sind. Ähnliche Tendenzen sieht man auch in der Kategorie „Früheres Bundesgebiet”. Demgegenüber ist der Anteil der Privatschulen in den neuen Bundesländern deutlich höher als in den alten Bundesländern. Mit fast 32 Prozent liegt der Anteil der privaten Berufsschulen in den neuen Bundesländern fast doppelt so hoch wie in den alten Bundesländern. Man kann aber feststellen, dass der Anteil der allgemeinbildenden Schulen sowohl in den neuen als auch in den alten Bundesländern fast gleich hoch ist. Auch kann man sagen, dass der Anteil der Berufsschulen doppelt bzw. dreimal so hoch ist wie der Anteil der allgemeinbildenden Schulen. Leider kann man nicht deutlich sehen, warum das so ist. Es wäre auch interessant, den Anteil von Privatschulen in anderen Schulformen zu sehen. In der Grafik fehlt meiner Meinung nach eine Darstellung der Entwicklung. Es würde mich interessieren, wie der Anteil der Privatschulen in den Jahren vor 2008 war. Bài viết có tham khảo dữ liệu từ: www.wirtschaftsdeutsch.de www.sprachzentrum.com.ar Tác giả: Cẩm Chi