Động từ bất quy tắc – tiếng Đức gọi là “unregelmäßige Verben” hay “starke Verben” – chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số các động từ trong tiếng Đức (“chỉ” khoảng 200 từ). Chúng được gọi là “bất quy tắc” vì khi chia, nguyên âm chính của chúng không giữ nguyên mà đều thay đổi. Có những cách thay đổi nguyên âm như sau: 1. Đổi từ -a- sang -ä- backen / bäckt – buk – hat gebacken blasen / bläst – blies – hat geblasen fahren / fährt – fuhr – ist gefahren fangen / fängt – fing – hat gefangen graben / gräbt – grub – hat gegraben halten / hältst/hält – hielt – hat gehalten laden / lädst/lädt – lud – hat geladen lassen / lässt – ließ – hat gelassen schlafen / schläft – schlief – hat geschlafen schlagen / schlägt – schlug – hat geschlagen tragen / trägt – trug – hat getragen wachsen / wächst – wuchs – ist gewachsen waschen / wäscht – wusch – hat gewaschen 2. Đổi từ -au- sang -äu- laufen / läuft – lief – ist gelaufen saufen / säuft – soff – hat gesoffen 3. Đổi từ -e- sang -i- brechen / bricht – brach – hat gebrochen erschrecken / erschrickt – erschrak – ist erschrocken essen / isst – aß – hat gegessen fressen / frisst – fraß – hat gefressen geben / gibt – gab – hat gegeben gelten / gilt – galt – hat gegolten helfen / hilft – half – hat geholfen messen / misst – maß – hat gemessen nehmen / nimmt – nahm – hat genommen quellen / quillt – quoll – ist gequollen schmelzen / schmilzt – schmolz – ist geschmolzen sprechen / spricht – sprach – hat gesprochen stechen / sticht – stach – hat gestochen sterben / stirbt – starb – ist gestorben treffen / trifft – traf – hat getroffen treten / tritt – trat – hat getreten verderben / verdirbt – verdarb – ist verdorben vergessen / vergisst – vergaß – hat vergessen werfen / wirft – warf – hat geworfen 4. Đổi từ -e- sang -ie- befehlen / befiehlt – befahl – hat befohlen empfehlen / empfiehlt – empfahl – hat empfohlen geschehen (nur 3. Person möglich!!) >>> er/sie/es geschieht / sie geschehen – geschah/geschahen – ist geschehen lesen / liest – las – hat gelesen sehen / sieht – sah – hat gesehen stehlen / stiehlt – stahl – hat gestohlen 5. Những động từ bất qui tắc quan trọng nhất: haben – hatte – hat gehabt ich habe / hatte du hast / hattest er, sie, es hat / hatte wir haben / hatten ihr habt / hattet sie haben / hatten sein – war – ist gewesen ich bin / war du bist / warst er, sie, es ist / war wir sind / waren ihr seid / wart sie sind / waren werden – wurde – ist geworden ich werde / wurde du wirst / wurdest er, sie, es wird / wurde (ward) wir werden / wurden ihr werdet / wurdet sie werden / wurden wissen – wusste – hat gewusst ich weiß / wusste du weißt / wusstest er weiß / wusste wir wissen / wussten ihr wisst / wusstet sie wissen / wussten Tác giả: Cẩm Chi
Ngữ pháp
Chắc các bạn cũng đã nhận ra rằng cái khó của tiếng Đức không nằm ở những từ khó, từ lạ mà lại nằm ở cách sử dụng cực kì đa dạng của những từ tưởng chừng rất đơn giản. Hôm nay, chúng ta cùng đến với từ “als” nhé! 1. Dùng để chỉ thời gian… a. khi muốn nói về các sự việc xảy ra trước, sau hoặc song song nhau trong quá khứ và mang tính chất không lặp lại (Einmaligkeit), ví dụ: Als ich ein Kind war, war sonnabends noch Schulunterricht. (Khi tôi còn bé, thứ bảy cũng là ngày đi học.) Als sie in der Küche saß, klopfte es an die Tür. (Khi cô ấy ngồi trong bếp thì có tiếng gõ cửa.) Als sie eintraf, hatten die anderen bereits gegessen. (Khi cô ấy đến nơi thì những người khác đang ăn mất rồi.) b. và có thể kết hợp thêm với các thông tin chỉ thời gian nữa như: damals, als… (hồi đó, khi mà…) zu der Zeit, als… (vào thời gian đó, khi mà…) 2. Dùng khi muốn so sánh hơn (Komparation), ví dụ: mehr rechts als links (sang/ở phía bên phải nhiều hơn là bên trái) Er ist schneller als sein Bruder. (Anh ta nhanh hơn anh/em trai mình.) Das ist mehr als traurig! (Điều đó còn buồn hơn cả buồn! = Buồn quá mức!) 3. Đứng sau các từ như NICHTS, ANDERS,… Das ist nichts als Unsinn! = Das ist nur Unsinn! (Cái đó không có gì khác ngoài mấy trò nhảm nhí! = Chỉ toàn trò nhảm nhí!) Das ist alles andere als schön. = Es ist nicht schön. (Nó là tất cả trừ việc đẹp đẽ/hay ho. = Nó thật chẳng đẹp đẽ/hay ho chút nào.) Es ist ganz anders, als ich (es) erwartet habe. (Nó hoàn toàn khác so với điều tôi mong đợi.) 4. Dùng trong câu so sánh khi nói đến một hành động được “xem là” có một ý nghĩa nào đó (khá thường xuyên được dùng chung với “ob” hoặc “wenn”), ví dụ: Er tat, als habe er nichts gehört. (Anh ta làm như không nghe thấy gì.) Er tat, als ob er hier bleiben wollte. (Anh ta làm như rất muốn ở lại đây.) 5. Dùng khi muốn miêu tả cụ thể hơn, ví dụ: Er fühlt sich als Held. (Anh ta cảm thấy mình như một anh hùng.) Ich rate dir als guter Freund dazu. (Tôi khuyên anh về chuyện đó dưới tư cách một người bạn tốt.) Er war als Schriftsteller erfolgreich. (Anh ta đã từng thành công khi làm nhà văn.) etwas als angenehm empfinden (cảm nhận dễ chịu về điều gì/cái gì) 6. Khi kết hợp trong một số cụm từ, ví dụ: sowohl… als auch…. – cả (cái này)… lẫn (cái kia)… Dieser Tag war umso geeigneter für den Ausflug, als das Wetter gut war. (Ngày hôm nay (còn) thấy hợp để đi du ngoạn hơn (nữa) vì (khi thấy) thời tiết cũng thật đẹp.) 7. Khi muốn nâng tầm quan trọng của sự việc hoặc một ai đó, ví dụ: Wer sonst als er sollte das tun?? (Còn ai ngoài anh ta có thể làm được việc này??) Tác giả: Cẩm Chi
Thông thường thì tên riêng của thành phố và các quốc gia KHÔNG ĐI KÈM mạo từ (Nullartikel), ví dụ: Berlin ist die Hauptstadt von Deutschland. (Berlin là thủ đô của nước Đức.) Freiburg ist eine Universitätsstadt in Baden-Württemberg. (Freiburg là một thành phố có trường đại học tại bang Baden-Württemberg.) Kassel liegt im Zentrum von Deutschland. (Kassel nằm ở trung tâm nước Đức.) Deutschland ist ein Industrieland. (Đức là một nước công nghiệp.) Korea liegt in Ostasien. (Hàn Quốc nằm ở Đông Á.) Brasilien ist das größte Land Südamerikas. (Brazil là đất nước lớn nhất Nam Mỹ.) Thế nhưng, khi muốn miêu tả đặc trưng của các thành phố hoặc quốc gia, nghĩa là khi thêm bổ ngữ cho tên riêng của các thành phố và quốc gia, thì ta phải thêm mạo từ “das” cho chúng, ví dụ: das Hanoi der 80-er Jahre. (Hà Nội của thập niên 80.) das schön gelegene Stuttgart (thành phố Stuttgart nằm ở vị trí thật đẹp đó.) das Paris von Haussmann (Paris của Haussmann.) (*Chú thích: Haussmann từng là quận trưởng quận Seine, Paris vào những năm 1860 và là người đã quy hoạch cũng như mở rộng thành phố Paris với trung tâm là tháp Eiffel như ta biết ngày nay.) das alte Japan (Nhật Bản thời xưa.) das Deutschland der 50er-Jahre (nước Đức thập niên 50.) das Russland der Zarenzeit (nước Nga thời Sa hoàng.) Tuy nhiên, vẫn có một số ngoại lệ tùy theo thay đổi đặc trưng ngôn ngữ ở từng địa phương. Đồng thời, một số địa danh/danh lam thắng cảnh như hồ, sông, núi,… cũng đi kèm với mạo từ như sau: Tên riêng của sông (Flüsse): der Rhein, die Donau, der Nil, der Amazonas, die Wolga,… Tên riêng của núi (Berge): die Zugspitze, der Feldberg, das Matterhorn, der Eiger, der Himalaya,… Tên riêng của hồ/biển (Seen): der Bodensee, der Chiemsee, der Viktoriasee, die Ostsee, die Nordsee,… Tác giả: Cẩm Chi
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi câu hỏi này hay chưa: “Tại sao tiếng Đức cần có sự tồn tại của Nominativ, Akkusativ và Dativ?”. Vậy thì trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này, đồng thời khám phá mô hình tiếp theo trong việc xây dựng câu của tiếng Đức, mô hình ngữ pháp truyền thống, hay còn được gọi là mô hình SPO. SPO chính là viết tắt của Subjekt (chủ ngữ), Prädikat (hành động) và Objekt (tân ngữ). Nó được gọi là mô hình ngữ pháp truyền thống bởi vì nó mang điểm chung của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới: không có bất kì ngôn ngữ nào mà khi dựng một câu cơ bản, bạn không thể chỉ ra đâu là chủ ngữ, đâu là hành động và đâu là tân ngữ (nếu có). Mô hình SPO coi chủ ngữ (chủ thể gây ra hành động) là trọng tâm của một câu và các thành phần khác sẽ phụ thuộc vào chủ ngữ. Chủ ngữ ở trình độ cơ bản có thể là danh từ (Substantiv), lên cao dần sẽ mở rộng ra thêm, bao gồm đại từ (Pronomen), động từ nguyên thể được cấu tạo thành danh từ (Infinitiv), cụm từ mang giá trị danh từ (Nominalphrase) hay cụm từ được cấu tạo từ Partizip I hoặc II (Partizipialkonstruktion). Về mặt cơ bản, chủ ngữ trong một câu là bắt buộc phải có. Thậm chí ngay cả trong những trường hợp mà không chủ thể nào gây ra hành động được nhắc tới thì người Đức vẫn thêm vào đó một chủ ngữ giả, ví dụ như: Es regnet (trời mưa) Es ist unmöglich (không thể nào) Như vậy, khi một câu đã có chủ ngữ (Subjekt) thì chủ ngữ đó phải tạo ra hành động nào đó (Prädikat) và trong rất nhiều trường hợp thì hành động đó cũng phải hướng tới các đối tượng cụ thể (Objekt). Các bạn có thể thấy, cách sắp xếp trình tự như vậy rất logic và dễ để nghĩ ra. Ngoài ra, tiếng Việt của chúng ta hay tiếng Anh cũng hầu như đều xây dựng câu cơ bản theo trình tự như vậy. Thế tại sao tiếng Việt hay tiếng Anh lại không cần cách (Kasus), còn tiếng Đức lại cần? Như chúng ta đã biết, có một quy tắc về việc sắp xếp các từ trong một câu chính (Hauptsatz) của tiếng Đức là: Trừ động từ, ta có thể đảo bất kì thành phần nào mà ta muốn lên đầu câu và câu vẫn đảm bảo đúng ngữ pháp (dĩ nhiên có trường hợp ngoại lệ nhưng mình không muốn nhắc tới trong bài này). Vậy thì khi câu có từ 2 danh từ (không đi kèm giới từ) trở lên, làm thế nào ta biết được danh từ nào là chủ ngữ? Trước tiên, ta cùng xem ví dụ sau: Ich sehe die Dörfer. (Tôi nhìn thấy những ngôi làng.) Die Dörfer sieht jeder von uns. (Ai trong chúng tôi cũng nhìn thấy những ngôi làng.) Ở trường hợp này, việc chia động từ sẽ giúp chúng ta xác định chủ ngữ, bởi vì động từ chính của câu sẽ luôn được chia theo chủ ngữ (ngôi “ich” là “sehe” và ngôi “jeder” là “sieht”). Vậy còn trường hợp này thì sao? Doraemon liebt jedes Kind. Câu này nên được hiểu như thế nào? Liệu là Doraemon yêu quý từng đứa trẻ hay là đứa trẻ nào cũng yêu quý Doraemon? Cả 2 cách hiểu đều đúng ngữ pháp nhưng nếu không có sự xuất hiện của Kasus thì dựa vào trình tự SPO hay thông qua đối chiếu tiếng Việt, người đọc có xu hướng nghiêng về cách hiểu đầu tiên hơn. Vậy thì để tránh hiểu nhầm, tiếng Đức cần có Nominativ (để biểu thị chủ ngữ) và Akkusativ/Dativ (để biểu thị tân ngữ). Ngoài ra, trong nhiều thứ tiếng (trong đó có tiếng Đức), một danh từ luôn có thể được thay thế bằng một đại từ. Tiếng Đức với đặc tính về giống của danh từ luôn đòi hỏi thay thế một danh từ bằng đại từ mang giống tương đồng với nó. Vậy giả sử nếu tân ngữ chỉ có thể được biểu thị bằng Akkusativ và trong 1 câu có 2 tân ngữ, trường hợp sau đây có thể xảy ra: Die Kreditkarte gibt er Anna. (Anh ấy đưa Anna thẻ tín dụng của anh ấy.) Sie gibt er sie. (Thay thế “Anna” bằng “sie” và “die Kreditkarte” bằng “sie”) Vậy vấn đề tương tự như trên lại xuất hiện: Anh ấy đưa thẻ tín dụng cho Anna hay anh ấy đưa Anna cho thẻ tín dụng? Để giải quyết vấn đề này, tiếng Đức cần có Akkusativ để chỉ vật và Dativ để chỉ người trong trường hợp có nhiều hơn một tân ngữ. Sự xuất hiện của Nominativ, Akkusativ và Dativ là chưa đủ để biết chắc danh từ nào đóng vai trò là chủ ngữ của câu, nhưng nó là cần thiết để tạo ra tính tương phản về mặt ngữ pháp nhằm giúp người học, đặc biệt ở trình độ sơ cấp, dễ tiếp cận tiếng Đức hơn. Quay lại với SPO, như chúng ta đã thấy ở các ví dụ phía trên, việc chủ ngữ nắm vai trò chính sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc chia động từ (như đã nói, động từ chính luôn chia theo chủ ngữ). Ngoài ra, việc xác định rõ chủ ngữ và hành động trước tiên trong những cấu trúc câu ghép, câu có nhiều danh từ hoặc khi câu có quá nhiều thành phần bổ trợ sẽ giúp chúng ta gỡ rối nhanh hơn, qua đó tăng đáng kể tốc độ đọc hiểu văn bản. Tuy vậy, SPO có một điểm yếu cực lớn là không giúp người học nắm được các thành phần hỗ trợ động từ như Valenz và không giúp người học định hình về việc sắp xếp thứ tự các từ trong câu như Felder. Ngoài ra, việc lấy chủ ngữ làm trọng tâm cũng vấp phải trở ngại lớn khi có không ít trường hợp đặc biệt về việc xây dựng câu không có hoặc rút gọn chủ ngữ. Cuối cùng, một ngoại lệ nữa về quy tắc chủ ngữ luôn ở Nominativ là những tân ngữ đứng sau động từ sein, werden, bleiben, heißen,… cũng đi cùng với Nominativ. Nói chung là cứ ngoại lệ là không vui rồi xD. Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Adverb/số nhiều là Adverbien – hay còn gọi là Umstandswort – tiếng Việt gọi chung là trạng từ – dùng để miêu tả cụ thể hơn về tình trạng và hoàn cảnh của sự việc, và đặc biệt, chúng là những từ không bao giờ biến đổi hay có thể chia ra các cách. Có 4 loại trạng từ sau: Trạng từ chỉ nơi chốn (Lokaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wo? wohin? woher? – ví dụ: dort, hinten, draußen, links, hier, oben, dort,… Trạng từ chỉ thời gian (Temporaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wann? wie lange? wie oft? – ví dụ: heute, abends, bald, jetzt, sofort, gleich,… Trạng từ chỉ cách thức/trạng thái (Modaladverbien) – trả lời cho câu hỏi wie? auf welche Weise? – ví dụ: gern, barfuß, sehr gut, vergebens,… Trạng từ chỉ lý do/nguyên nhân (Kausaladverbien) – trả lời cho câu hỏi warum? weshalb? – ví dụ: darum, notfalls, deshalb,… 1. Chức năng Trạng từ… là một thành phần riêng biệt và độc lập trong câu. Ví dụ: HIER werden Häuser gebaut. là một bổ ngữ khi nó đi theo một từ nào hay một nhóm từ nào đó. Ví dụ: SEHR gut, ABER AUCH GANZ normal, ZIEMLICH langweilig,… là bổ ngữ cho danh từ và sẽ được đặt ngay sau danh từ đó. Ví dụ: der Mann DA HINTEN, die Straße LINKS, die Frau DORT OBEN,… đứng trong một cụm từ đi kèm động từ (bổ ngữ cho động từ). Ví dụ: ich komme SPÄTESTENS MORGEN ZURÜCK. có thể thay thế cho một nhóm danh từ. Ví dụ: wir reden über die Geburtstage unserer Freunde – WORÜBER redet ihr?? 2. Vị trí Trạng từ vừa có thể đứng ở đầu câu, vừa có thể đứng ở giữa câu. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cách khác nữa để đặt trạng từ trong câu mà chỉ khi tập đặt câu cũng như giao tiếp nhiều, các bạn mới nắm bắt nhanh, hiểu và áp dụng chuẩn hơn! a. Trạng từ đứng ở đầu câu thì ta nhận thấy rất đơn giản, vì thông thường thì khi ấy, vị ngữ (Prädikat) sẽ đứng thứ 2, ngay sau trạng từ! ENDLICH treffen wir uns. HEUTE scheint die Sonne. SO sprechen sie miteinander. b. Nếu trạng từ đứng giữa câu thì ta sẽ có nhiều lựa chọn và cần chú ý một số nguyên tắc sau: Trạng từ sẽ đứng TRƯỚC tân ngữ chỉ vật (Akkusativobjekt) và đứng SAU tân ngữ chỉ người (Dativobjekt): Ich kaufe mir (Dativ) SCHLIEßLICH eine neue Hose (Akkusativ). Er gibt sich STETS Mühe. Sie zeigte mir (Dativ) GERN ihre selbstgemachte Plüschtiere (Akkusativ). Đặc biệt, để nhấn mạnh hay cường điệu câu kể, ta có thể đặt trạng từ ngay SAU Akkusativobjekt: Sie kann ihn NIRGENDS finden. Er liebt mich DOCH. Trạng từ không được đặt trước đại từ (Pronomen). Nếu Akkusativobjekt và Dativobjekt đều là đại từ (thay thế cho danh từ đã nhắc ở câu trước), thì trạng từ phải đặt SAU 2 đại từ đó: Sie fragte die Verkäuferin, ob sie sie (die Hose) ihr FREUNDLICHERWEISE zur Probe überlassen könnte. Nếu trong câu không có tân ngữ, trạng từ sẽ đứng ngay SAU động từ đã được chia: Ich kann LEIDER nicht kommen. Er kocht MANCHMAL selbst. Sie überlegt ZURZEIT, die Arbeit zu wechseln. Nếu câu có tân ngữ và thời gian, địa điểm đi kèm giới từ (Präposition), ta phải đặt trạng từ TRƯỚC giới từ: Ich treffe mich MANCHMAL mit meinen Freunden zum Kaffeetrinken. Sie ging GESTERN zum Arzt. Tác giả: Cẩm Chi
Một trong những chủ đề quan trọng bậc nhất, đồng thời đóng vai trò là nền tảng cho việc sử dụng tiếng Đức trong thực tế, chính là Satzbau (cách xây dựng câu). Về lý thuyết, chúng ta có tổng cộng 3 mô hình khác nhau để phân tích và đánh giá một câu trong tiếng Đức. Tuy vậy, trong bài viết này, mình muốn dành thời lượng để đưa đến cho các bạn một cái nhìn khái quát và dễ hiểu nhất có thể về mô hình Valenz, mô hình phổ biến nhất và cũng là nền tảng cho nhiều cuốn sách, giáo trình dạy tiếng Đức nhất trong khoảng 40 năm trở lại đây. Trước hết thì, “Valenz” có nghĩa là gì? Chúng ta có rất nhiều định nghĩa cho khái niệm này. Nguyên thủy thì khái niệm này xuất phát từ ngành hóa học, có nghĩa là “hóa trị” của một nguyên tố (nào, các bạn đừng bảo với mình các bạn không biết hóa trị là gì đấy nhé). Ngoài ra, đây cũng là khái niệm được dùng trong tâm lý học hay sinh thái học. Trong ngôn ngữ học, “Valenz” được sử dụng để mô tả thuộc tính của các từ trong một trường hợp cụ thể. Nghe có vẻ phức tạp nhỉ? Vậy ta cùng tìm hiểu xem định nghĩa đó nên được hiểu như thế nào! Mô hình Valenz coi động từ là trọng tâm của một câu và diễn giải đại bộ phận những thành phần còn lại của câu phụ thuộc vào sự có mặt cũng như chức năng của động từ. Điều đó có nghĩa là, động từ tạo ra những không gian có kích cỡ khác nhau dành cho các thành phần bổ trợ khác, hay còn được gọi với thuật ngữ “Ergänzungen”. Động từ trong câu sẽ quyết định xem thành phần nào của câu là bắt buộc phải có, và để cho câu đúng ngữ pháp, các thành phần đó nên được sử dụng ở dạng như thế nào. Nói một cách đơn giản, động từ sẽ điều khiển các thành phần bổ trợ, ví dụ như chúng xác định cách của một tân ngữ, một “Ergänzung” hay xác định xem đối với động từ này thì sẽ cần có bao nhiêu “Ergänzungen”. Như vậy, đây chính là khái niệm “Valenz” của một động từ mà mình đã nhắc tới ở phía trên, hay còn có một tên gọi khác là “Wertigkeit”. Mỗi động từ trong tiếng Đức, do vậy, sẽ được chia thành nhiều loại với số lượng thành phần bổ trợ khác nhau. Bài viết này, với hi vọng làm mọi thứ trở nên dễ tiếp cận hơn, sẽ chỉ giới thiệu với các bạn 3 loại sau đây: 1-wertige Verben: là những động từ chỉ cần một “Ergänzung” duy nhất. Động từ “schlafen” chỉ đòi hỏi duy nhất chủ thể gây ra hành động ở Nominativ, ví dụ như: Ich schlafe (tôi ngủ). 2-wertige Verben: là những động từ có thể có 2 “Ergänzungen” khác nhau. Động từ “backen” đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và đối tượng mà hành động hướng tới ở Akkusativ, ví dụ như: Mona backt einen Kuchen (Mona nướng một cái bánh). Động từ “helfen” lại đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và đối tượng mà hành động hướng tới ở Dativ, ví dụ như: Giang hilft ihrer Mutter (Giang giúp đỡ mẹ của cô ấy). Động từ “denken” đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và bổ trợ cho nó là một cấu trúc đi kèm giới từ, ví dụ như: Kobe denkt an seinen Urlaub (Kobe nghĩ đến kì nghỉ của anh ấy). 3-wertige Verben: là những động từ có thể có 3 “Ergänzungen” khác nhau. Động từ “geben” đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và 2 đối tượng khác nhau mà hành động hướng tới, một ở Dativ và một ở Akkusativ, ví dụ như: Duc gibt mir ein Buch (Đức đưa cho tôi một quyển sách). Ngoài các thành phần chính này, câu chỉ còn duy nhất một thành phần bổ trợ, được gọi là “Angaben”. Do mục đích và độ dài bài viết, mình sẽ để dành chủ đề này cho một bài viết khác. Quay lại với các loại động từ, mô hình Valenz cho chúng ta một cái nhìn cực kì rõ ràng về cách sử dụng động từ trong tiếng Đức: không chỉ đơn giản hiểu ý nghĩa của nó, mà quan trọng hơn, biết rõ ràng xem động từ đó được dùng như thế nào. Điều này sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều trong quá trình học mở rộng vốn động từ. Tuy vậy, điều chưa tối ưu ở mô hình này là không phải lúc nào chúng ta cũng cần đến số lượng tối đa những thành phần bổ trợ của một động từ cụ thể. Ta cùng xem xét một ví dụ với động từ “vermieten” (cho thuê). Đây rõ ràng là một động từ thuộc nhóm thứ 3 kể trên, vì nó có thể bao gồm chủ thể gây ra hành động ở Nominativ, đối tượng hành động hướng tới ở Akkusativ và một cấu trúc đi kèm giới từ “an” ở Akkusativ, ví dụ như: Herr Heigl vermietet die Wohnung an mich (Ngài Heigl cho tôi thuê căn hộ). Thế nhưng, trong một số văn cảnh nhất định, ví dụ như một mẩu quảng cáo từ một khách sạn như sau: Das Hotel vermietet Konferenzräume (Khách sạn cho thuê phòng hội họp), điều mà ta thấy được là: việc nêu ra người muốn thuê lại là việc không cần thiết. Giả sử người muốn thuê là một công ty, vậy mẩu quảng cáo sẽ trở thành: Das Hotel vermietet Konferenzräume an Firmen (Khách sạn cho các công ty thuê phòng hội họp). Điều này đồng nghĩa với việc các cá nhân, tổ chức khác sẽ không được phép thuê phòng nữa! Nếu thay vào đó, ta viết: Das Hotel vermietet Konferenzräume an Interessierte (Khách sạn cho những người có nhu cầu thuê phòng hội họp). Điều này lại trở nên không cần thiết, vì không cần nhắc đến đối tượng thuê phòng này thì hầu như mọi người đọc đều có thể tự suy ra sau khi đọc mẩu quảng cáo ban đầu. Nói tóm lại, chúng ta hãy cố gắng luôn luôn học nghĩa và cả cách dùng cụ thể của từng động từ theo mô hình Valenz. Tuy nhiên, biết về tất cả cách dùng không bao giờ có nghĩa là mỗi lần sử dụng một động từ, chúng ta nhất định phải sử dụng tối đa những thành phần bổ trợ mà nó sở hữu. Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Trong ngôn ngữ học, việc hình thành một ý tưởng câu dựa trên 2 yếu tố: những thứ mà ta đã biết (Thema) và những thông tin, ý kiến mới mà ta thêm vào (Rhema). “Thema” của một câu bao gồm những thông tin mà tất cả chúng ta đều biết, đã được nhắc đến phía trước hoặc được làm rõ thông qua văn cảnh khi viết. Do vậy, chúng có vai trò định vị cho câu, để làm rõ và khiến người đọc hiểu rằng thông tin chính xuất hiện trong điều kiện, hoàn cảnh như thế nào. “Rhema”, ngược lại, chính là linh hồn của câu. Điều này thật ra khá dễ hiểu vì chúng ta không thể viết một câu mà không mang lại bất kì thông tin nào cho người đọc cả. Chúng ta cùng tham khảo một vài ví dụ sau đây: In Hanoi (Thema) ist es seit Tagen sehr warm (Rhema). Ich (Thema) habe die Prüfung sehr gut bestanden (Rhema). Es war einmal ein König (Rhema). Er (Thema) hatte drei Töchter (Rhema). Để trình bày một luận điểm hay một vấn đề, chúng ta có một vài cấu trúc khác nhau sử dụng Thema & Rhema (hay còn gọi là Thema-Rhema-Struktur hay Informationsstruktur). 1. Lineare Thema-Rhema-Struktur Cấu trúc này là cấu trúc cơ bản nhất và thường được dùng trong các cuộc hội thoại thân mật. Ở đây, một Rhema sẽ chịu trách nhiệm mở đầu vấn đề bằng câu đầu tiên. Sau đó Rhema này sẽ đóng vai trò là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Đây là cấu trúc hay gặp trong các cuộc hội thoại “Smalltalk” hay trong các văn bản không đặt nặng tính hình thức. Peter ist ziemlich erkältet (Rhema). Seine Erkältung (Thema 1) ist aber nicht bedenklich (Rhema 1) Marie ist die Freundin von Renate (Rhema). Renate (Thema 1) ist die Kollegin meiner Mutter (Rhema 1). Meine Mutter (Thema 2) heißt auch Renate (Rhema 2). Dabei (Thema 3) ist Renate kein häufiger Name (Rhema 3),… 2. Durchlaufendes Thema Cấu trúc này đưa ra nhiều Rhema khác nhau cho cùng một Thema. Nói cách khác, Thema của câu đầu tiên cũng chính là Thema của câu tiếp theo và cứ tiếp diễn như vậy. Do đó, nó phù hợp khi bạn muốn miêu tả về một sự việc hay vấn đề nào đó. Một công cụ hữu ích khi sử dụng cấu trúc này để viết chính là việc sử dụng MindMap. Peter (Thema) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Er (Thema) kann trotzdem zur Arbeit gehen (Rhema 2). Kupfer (Thema) ist ein chemisches Element mit dem Elementsymbol “Cu” und der Ordnungszahl 29 (Rhema 1). Es (Thema) ist ein Übergangsmetall (Rhema 2), im Periodensystem steht es (Thema) in der 4. Periode und der 1. Nebengruppe oder Kupfergruppe (Rhema 3). Một trường hợp đặc biệt có thể kể tới là “Progression mit abgeleiteten Themen”. Ở đây, các Rhema khác nhau của 1 Thema sẽ được sắp xếp và đánh dấu rõ ràng để tiện cho việc theo dõi. Ví dụ cụ thể là phần mục lục của tất cả các cuốn sách. 3. Gespaltenes Rhema Ở hình thức này, trái ngược với “durchlaufendes Thema”, một Rhema sẽ được chia thành nhiều phần nhỏ và được xem xét trong các Thema khác nhau. Thông qua việc phân tích trong các Thema đó, các phần nhỏ của Rhema sẽ được xem xét một cách kĩ càng và đa chiều, đồng thời tạo nên một Rhema tổng hợp có sức thuyết phục hơn. Cấu trúc này được sử dụng trong các cuộc tranh luận hay phân tích mặt lợi – mặt hại của một vấn đề. Die Sprachwissenschaftliche Forschung hat sich bei blinden Kindern vor allem mit den Auswirkungen der Behinderung auf Themenwahl und nonverbales Verhalten konzentriert (Rhema). Die wenigen Untersuchungen lassen vermuten, dass in Gesprächen mit blinden Kindern Themen (Thema 1) überwiegen, die sich eher auf das Kind, als auf dessen Umgebung beziehen. In vielen Fällen wird das nonverbale Verhalten (Thema 2) durch Blindismen geprägt. 4. Thematischer Sprung Ở hình thức này, Rhema và Thema của các câu liên tiếp sẽ hoàn toàn khác nhau do những thông tin được đánh giá là “ai cũng hiểu” sẽ được bỏ qua. Do vậy, hình thức này sẽ chỉ thích hợp cho việc trao đổi thông tin giữa những người có cùng chuyên môn về một lĩnh vực nào đó. Peter (Thema 1) ist ziemlich erkältet (Rhema 1). Die Arbeitsstelle (Thema 2) ist schlecht beheizt (Rhema 2). Tác giả: Kobe
“Dies” và “Das” là 2 đại từ chỉ định (Demonstrativpronomen), có nghĩa là những từ dùng để thay thế, có chức năng nhắc lại/làm nổi bật thông tin đã được nhắc đến ở phía trước. Do vậy, chúng không cần đi trực tiếp với một chủ ngữ như khi là quán từ. Về mặt ý nghĩa và cách sử dụng, 2 từ này hoàn toàn giống và có thể thay thế được cho nhau, ví dụ: Die Schüler haben die Hausaufgaben nicht gemacht. Das kann man nicht akzeptieren. Die Schüler haben die Hausaufgaben rechtzeitig abgegeben. Dies halte ich für unglaublich. “Das” là một từ phổ biến và được sử dụng rộng rãi hơn, trong khi “Dies” được dùng nhiều ở miền Nam nước Đức và một số nước châu Âu nói tiếng Đức khác. Cần chú ý rằng, khi được sử dụng như đại từ chỉ định, “dies” và “das” không thay thế cho bất kì một danh từ giống trung nào ở phía trước (phân biệt với “dieses” và “das” trong trường hợp này), mà nó thay thế cho toàn bộ nội dung, tức là một câu/một ý tưởng hoàn chỉnh nào đó. Để cho rõ ràng hơn, các bạn hãy tham khảo 2 ví dụ với “das” sau đây: Ich habe ein neues Auto gekauft. Das gefällt mir sehr gut. Ich habe ein neues Auto gekauft. Das können meine Freunde sich nicht vorstellen. Ngoài ra, trong các cuộc nói chuyện của giới trẻ, “dies das” viết liền nhau được dùng để thể hiện chung chung nhiều thứ không được định nghĩa rõ ràng, ví dụ: Was machst du? Dies das! (Bạn làm gì thế? Ừ thì cái này cái kia – người trả lời ám chỉ rằng câu trả lời cụ thể cho câu hỏi đó không thật sự quan trọng hoặc đơn giản là anh ta không muốn trả lời câu hỏi đó). Ich war gestern grillen, dies das (Hôm qua tôi đi nướng thịt “các thứ các thứ” – người trả lời ám chỉ là họ đi nướng thịt và làm rất nhiều những hoạt động khác liên quan đến nướng thịt, nhưng họ không muốn liệt kê hết ra). Tác giả: Kobe
Chắc hẳn không ít người trong chúng ta, nhất là những bạn đã ở Đức, đã không ít lần nghe thấy hoặc nhìn thấy những phản hồi như thế này từ người Đức: Wo bist du? – Ich bin arbeiten. Was machst du? – Ich bin gerade essen. Bản thân mình cũng đã có lần “chỉnh” bạn người Đức của mình vì nghĩ rằng đúng ra phải nói là: “Ich bin am Arbeiten”. Tuy vậy, khi nhìn thấy người thứ 2, thứ 3,… cũng nói như vậy, mình đã quyết định tìm hiểu xem, liệu đây có phải là một hiện tượng ngữ pháp mình chưa từng biết hay không. Và booom!! Đúng là như vậy! Hiện tượng ngữ pháp đó gọi là “Absentiv”. Absentiv là một hiện tượng ngữ pháp mà hành động được thể hiện thông qua việc sử dụng trợ động từ “sein” trực tiếp với một động từ nguyên thể khác. Bằng cách sử dụng Absentiv, người nói biểu đạt việc không có mặt của mình ở một địa điểm xác định trong văn cảnh cuộc nói chuyện. Động từ nguyên thể trong câu đóng vai trò là nguyên nhân giải thích cho sự vắng mặt đó. Do vậy, sự vắng mặt có thể được làm rõ bằng một bổ ngữ chỉ nơi chốn, nhưng không nhất thiết phải có (xem ví dụ phía dưới): Ich bin im Büro arbeiten Ich bin arbeiten Absentiv có thể xuất hiện ở ngôi thứ 3. Trong trường hợp này, thường thì chúng ta có khá nhiều cách hiểu về một câu nói. Trong ví dụ phía dưới, Nils có thể đang trên đường tới sân bóng đá, cũng có thể đang chơi bóng đá hoặc cũng có thể đang trên đường từ sân bóng đá trở về nhà (vào thời điểm cuộc hội thoại diễn ra): Wo ist der Nils? Der ist Fußball spielen. Tuy vậy, Absentiv hay gặp nhất là ở ngôi thứ 1, đặc biệt trong các cuộc nói chuyện thoải mái hàng ngày, giữa những người bạn, những người thân quen. Trong ví dụ phía dưới, chúng ta có thể nhận ra một cuộc nói chuyện điện thoại quen thuộc giữa 2 vợ chồng trong một gia đình: Wo bist du? Warum bist du nicht zu Hause? Ich bin gerade einkaufen. Trong nhiều trường hợp, người nói cũng sử dụng Absentiv để thể hiện một ý định trong tương lai gần: Und wie sieht es bei dir morgen aus? Na ja, ich bin dann mal wieder arbeiten! Chúng ta có thể so sánh Absentiv với thời Hiện tại tiếp diễn trong tiếng Anh (thời mà tiếng Đức không hề có), khi việc khẳng định sự vắng mặt của người nói vì bận làm một việc gì đó cũng có thể được coi là họ đang làm việc đó ngay lúc này. Tuy vậy, khác với Hiện tại tiếp diễn, không phải động từ nào cũng có thể được dùng cho Absentiv. Theo một số nghiên cứu về ngôn ngữ học, những động từ sau đây là những động từ thường được dùng nhất cho Absentiv với tỉ lệ tương ứng là: einkaufen (33,1%), essen (27,6%), arbeiten (8,6%), trinken (4,9%), spazieren (4,3%), tanzen (4,3%), spielen (3,7%), joggen/laufen (1,8%), kacken (1,2%), schwimmen (1,2%), (Mails) beackern, (Freunde) besuchen, duschen, (Platten) kaufen, kegeln, (Wäsche) machen, (Beeren) pflücken, pissen, putzen, (Hirsch) schließen, shoppen, surfen, telefonieren, zelten (mỗi từ 0,7%). Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Tiếng Đức có 3 cách thức sử dụng động từ, bao gồm: Indikativ – thể thức khẳng định Imperativ – mệnh lệnh thức, và Konjunktiv – cách chia động từ để dùng khi muốn nói về một chuyện không có thật, một khả năng, một mong muốn… có thể xảy ra, hoặc khi đổi từ lời đối thoại sang câu kể (tiếng Đức gọi là Möglichkeitsform). Konjunktiv lại được chia làm 2 cách như sau: A. CÁCH DÙNG KONJUNKTIV 1 3 trợ động từ sein, haben và werden được chia trong Konjunktiv 1 như sau: sein – waren – gewesen Konjunktiv 1: ich sei du sei(e)st er/sie/es sei wie seien ihr sei(e)t sie/Sie seien haben – hatten – gehabt Konjunktiv 1: ich habe du habest er/sie/es habe wir haben ihr habet sie/Sie haben werden – wurden – geworden Konjunktiv 1: ich werde du werdest er/sie/es werde wir werden ihr werdet sie/Sie werden 1. Konjunktiv 1 thường dùng khi đổi lời hội thoại sang câu kể: Người kể lại dùng Konjunktiv 1 để thể hiện khoảng cách với người nói, với ý là “anh ta/cô ấy nói như vậy, nhưng tôi không chắc chắn” hoặc “tôi chỉ nhắc lại lời của họ thôi” – giống một cách khẳng định sự vô tư, khách quan của mình, dành quyền phán xét cho người nghe. Bằng cách này, người kể đồng thời cũng không cần đảm bảo độ chính xác của những câu nói được lặp lại. Ví dụ: Die Zeitung schreibt, die Theateraufführung sei ein Erfolg gewesen = Tờ báo viết rằng, vở diễn đã rất thành công. Der Reporter fragte den Erfinder, ob sein Gerät schon im Laden gekauft werden könne (đây là cách dùng Konjunktiv Passiv, là thể bị động, mình sẽ viết cụ thể hơn về chủ đề này vào dịp khác) = Phóng viên hỏi nhà phát minh, liệu mọi người đã có thể mua thiết bị của ông (sáng chế ra) ở ngoài cửa hiệu chưa? Ihre Kolleginnen behaupten, sie habe gemogelt = Các nữ đồng nghiệp của cô ấy khẳng định rằng, cô ta đã gian lận/lừa đảo. ***Để rõ ràng hơn thì khi cách chia động từ sang Konjunktiv 1 giống với Indikativ, ta sẽ dùng Konjunktiv 2 thay thế, ví dụ: Vì câu “Die Gegner glauben, sie haben die besseren Argumente” không rõ ràng, nên ta phải nói: Die Gegner glauben, sie hätten die besseren Argumente = Đối thủ tin (tưởng) rằng, họ nắm trong tay những lập luận hay ho hơn (ý ở đây là “nhưng chưa chắc đâu nhé/đừng tưởng bở nhé”!!) Manche Raucher meinen, sie dürften (đáng lẽ là “dürfen”) überall ihren Qualm verbreiten = Nhiều người hút thuốc cho rằng, họ được phép nhả khói khắp nơi (hay sao đó??!!) Viele glauben, die Politiker redeten zu viel und handelten zu wenig = Nhiều người cho là, các chính trị gia nói thì quá nhiều mà làm thì quá ít. 2. Konjunktiv 1 còn dùng trong các câu hướng dẫn, chỉ dẫn, huấn thị (trong công thức nấu ăn hay bài toán đố …), ví dụ: Man nehme 300g Mehl und füge 3 Eier hinzu … = Ta lấy 300g bột mỳ và thêm vào đó 3 quả trứng. Gegeben seien zwei Geraden … = Ta có hai đường thẳng… 3. Konjunktiv 1 cũng dùng khi so sánh hoặc thú nhận điều gì, ví dụ: Ich gehe morgen baden – und sei es noch so kalt = Ngày mai tôi quyết đi bơi/đi tắm – kể cả trời có lạnh mấy đi chăng nữa! Er tat, als ob er mit allem einverstanden sei (hoặc dùng Konjunktiv 2 là “wäre” thay cho “sei”) = Anh ta làm ra vẻ là đồng ý với tất cả (mọi người/mọi việc). B. CÁCH DÙNG KONJUNKTIV 2: 1. Konjunktiv 2 chỉ dùng trong 2 thời là Präteritum và Plusquamperfekt, và trong câu chủ động (Aktiv) nó sẽ được chia như sau: 1.1. Ở thời Präteritum >>> dùng gốc của động từ trong thời Präteritum và thêm đuôi -e. -est, -e, -en, -et, -en. Với các động từ bất quy tắc thì thay đổi cả nguyên âm, ví dụ: kaufen – kaufte – gekauft Konjunktiv 2: ich kaufte du kauftest er/sie/es kaufte wir kauften ihr kauftet sie/Sie kauften sprechen – sprach – gesprochen Konjunktiv 2: ich spräche du sprächest er/sie/es spräche wir sprächen ihr sprächet sie/Sie sprächen gehen – ging – gegangen Konjunktiv 2: ich ginge du gingest er/sie/es ginge wir gingen ihr ginget sie/Sie gingen 1.2. Ở thời Plusquamperfekt >>> chia 2 trợ động từ haben/sein theo nguyên tắc Konjunktiv 2 thời Präteritum và kèm theo Partizip 2 của động từ chính, ví dụ: kaufen – gekauft haben: ich hätte gekauft du hättest gekauft er/sie/es hätte gekauft wir hätten gekauft ihr hättet gekauft sie/Sie hätten gekauft gehen – gegangen sein: ich wäre gegangen du wär(e)st gegangen er/sie/es wäre gegangen wir wären gegangen ihr wär(e)t gegangen sie/Sie wären gegangen *** Cách dùng cho thể bị động (Passiv) sẽ được nhắc tới ở một bài viết khác! 2. Khi nào ta dùng Konjunktiv 2? Konjunktiv 2 thường dùng trong câu nói hàng ngày, đặc biệt là trong các câu đặt ĐIỀU KIỆN và là cách nói LỊCH SỰ, và hầu hết ta dùng Konjunktiv 2 khi ta muốn kể về một chuyện KHÔNG CÓ THẬT hoặc KHÔNG/CHƯA THỂ XẢY RA, ví dụ: 2.1. Khi tưởng tượng hoặc nói về một sự việc không thực tế: Ich wäre jetzt gern auf Hawaii (… ich bin es aber nicht) – Giá mà bây giờ tôi đang ở Hawaii … Alina hätte mir bei den Hausaufgaben geholfen (… sie war aber nicht da) – Đáng lẽ Alina đã giúp tôi làm bài tập về nhà … (nhưng cô bạn đã không đến) 2.2. Dùng Konjunktiv 2 trong cả câu chính và câu phụ khi nói về một điều kiện không thực tế. Tuy nhiên, nếu điều kiện này còn có thể đáp ứng thì dùng thời Präteritum, nhưng nếu điều kiện không có khả năng thực hiện nữa thì dùng Plusquamperfekt: Wenn er käme, könnten wir anfangen (… er kann noch kommen) – Nếu anh ấy đến, chúng ta có thể bắt đầu (… tuy không chắc chắn, nhưng anh ấy còn có thể đến) Wenn er gekommen wäre, hätten wir anfangen können – Giá mà anh ấy đến thì chúng ta đã có thể bắt đầu (điều kiện không thể thực hiện được nữa) 2.3. Khi nói đến một mong muốn/mơ ước không thực tế, mà một là tạm thời chưa thực hiện được (dùng Konjunktiv 2 Präteritum) hoặc không thể thực hiện được nữa (dùng Konjunktiv 2 Plusquamperfekt): Wäre ich doch schon 18 Jahre alt … – Giá mà tôi đã được 18 tuổi thì … (vẫn còn xảy ra trong tương lai) Hätten wir doch nur gewonnen … – Giá mà chúng ta trúng thưởng … (không còn khả năng thực thi vì cuộc thi đã kết thúc) 2.4. Khi đề nghị hoặc hỏi ai đó một cách lịch sự: Könnten Sie das bitte stehen lassen! – Ngài có thể cứ để nguyên nó đấy được không ạ! Dürfte ich noch was Tee haben? – Tôi có thể uống/lấy thêm trà được không? 3. Dùng “würde” thay cho Konjunktiv 2: Thay vì cách chia Konjunktiv 2 như đã nói ở trên, hầu như ta dùng “würde” để nói chuyện hàng ngày. “würde” chính là Konjunktiv 2 của trợ động từ “werden”. Ta dùng würde + động từ nguyên thể Präsens hoặc würde + động từ chia thời Perfekt, ví dụ: Wenn Jakob käme, könnten wir losfahren. – Nếu Jakob đến, chúng ta sẽ lên đường/khởi hành – Dùng würde, ta sẽ có: Wenn Jakob kommen würde, könnten wir losfahren. Ob sie den Weg alleine gefunden hätte, bezweifle ich – Tôi rất hoài nghi, liệu cô ấy có tự tìm được đường không – Dùng würde ta sẽ có: Ob sie den Weg alleine gefunden haben würde, bezweifle ich. ***Cả hai cách dùng vừa nêu trong phần 3 này đều không thay đổi nghĩa của câu kể/câu nói. Tuy nhiên, trong câu chuyện hàng ngày, chúng ta sẽ thấy là mọi người thường dùng “würde” nhiều hơn, còn Konjunktiv 2 lại dùng trong câu viết nhiều hơn, và một số các động từ đã cũ hoặc khó dùng, người ta cũng dùng Konjunktiv bằng cách thêm “würde”, ví dụ: ich führe – ich würde fahren ich verlöre – ich würde verlieren ich wüsche – ich würde waschen ***Nếu cách chia Konjunktiv 2 trùng hợp với thời Präteritum, ta cũng nên dùng “würde” để tránh xảy ra nhầm lẫn, ví dụ: Thay vì nói là: Ich kaufte mir ein neues Hemd, wenn ich eines brauchte – thì ta nói: Ich würde mir ein neues Hemd kaufen, wenn ich eines brauchen würde. Tác giả: Cẩm Chi