Một cuộc thảo luận về cách trở thành một giáo viên tốt ư? Khái niệm này nghe có vẻ khá đặc thù và có lẽ là cũng không liên quan lắm đến hầu hết chúng ta. Rất ít người trong chúng ta muốn trở thành một giáo viên, người hướng dẫn trẻ em trong một số môn học nhất định hoặc một vài lĩnh vực khác. Đó là những gì chúng ta liên tưởng tới khi nghe tới hai chữ “giáo viên”, người thường sẽ mặc một chiếc áo khoác đã cũ, kiểu người dễ làm chúng ta cảm thấy nhàm chán bởi sự cứng nhắc trong những năm tháng đầu đời. Tuy vậy, giảng dạy không phải là thứ mà chúng ta chỉ cần phải học nếu chúng ta lên kế hoạch sẽ theo đuổi sự nghiệp giáo dục. Nói đúng hơn, việc giảng dạy – theo cách định nghĩa của chúng tôi, một “business” vĩ đại của việc truyền tải một ý tưởng quan trọng từ tâm trí người này sang tâm trí người khác – là một trong những kỹ năng sống quan trọng nhất mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng cần phải có. Mỗi người trong chúng ta, dù làm nghề gì, đều cần trở thành một giáo viên tốt, vì cuộc sống của chúng ta luôn đòi hỏi chúng ta truyền tải những thông tin quan trọng một cách khéo léo và hiệu quả vào nơi sâu nhất trong tâm trí của người khác. Chúng ta có thể thừa nhận – một cách khá thẳng thắn – rằng hầu hết chúng ta có lẽ đã bắt đầu từ một giáo viên khá tồi. Điều này không có gì đáng xấu hổ, bởi giống như hầu hết mọi thứ, việc giảng dạy có thể học được và cũng nhất thiết nên được học. Vậy thì một số điều kiện tiên quyết để trở thành một giáo viên tốt là gì? Chúng ta cùng tham khảo danh sách sau đây: 1. Giáo viên tốt không bao giờ đổ lỗi cho người khác đã không biết trước điều gì đó Điều này nghe có vẻ nghịch lý – ngay thời điểm nó được chỉ ra. Nhưng sự thật là chúng ta thường rất khó chịu vì một người khác chưa biết điều gì đó – ngay cả khi chúng ta thậm chí chưa bao giờ thực sự nói cho họ biết điều đó là gì. Một vài điều có thể rất quan trọng với chúng ta và chúng ta đơn giản là không thể tưởng tượng rằng có người lại không biết chúng. Khi đó, ta thậm chí nghi ngờ rằng, những người này chắc hẳn đang cố tình chọc tức chúng ta bằng việc giả vờ như không biết điều mà họ biết. Thái độ này ảnh hưởng tiêu cực và khiến cho những kiến thức chúng ta thực sự phải dạy chưa chắc sẽ đến với tâm trí của người học một cách thành công. Việc dạy tốt bắt đầu với ý niệm: sự thiếu hiểu biết không phải là khiếm khuyết của một cá nhân mà ta đang hướng dẫn; nó là hậu quả của việc anh ta chưa bao giờ được dạy đúng cách. Vì vậy, đúng ra, người duy nhất có lỗi ở đây lại chính là người đã truyền đạt chưa đủ tốt – hay nói cách khác, chính là người giáo viên. 2. Giáo viên tốt không tức giận Chúng ta càng cần người khác hiểu điều gì đó, chúng ta càng khó đảm bảo mức độ bình tĩnh của bản thân, điều không thể thiếu nếu chúng ta muốn truyền đạt điều đó cho họ một cách hiệu quả. Khả năng họ có thể không nhanh chóng hiểu được điều mà chúng ta cho rằng đặc biệt quan trọng dễ khiến chúng ta rơi vào trạng thái kích động hay tệ hơn là tức giận, và đây là trạng thái tệ nhất để có thể truyền tải bất cứ bài học nào. Vào thời điểm chúng ta bắt đầu nói ra những ngôn từ không hay với học trò, gọi họ là “đầu đất” hay “ngu ngốc”, bài giảng rõ ràng đã kết thúc ngay tại đó. Tôi chưa từng quen ai học được bất cứ điều gì trong tình trạng đang bị xúc phạm như vậy. Nghịch lý thay, những giáo viên tốt nhất lại là những người sẵn sàng chấp nhận khả năng những gì họ dạy sẽ không được học sinh tiếp thu. Chính cách tiếp cận hơi bi quan này là cơ hội tốt nhất để tạo ra sự thoải mái cần thiết cho tâm trí, hướng tới việc giảng dạy thành công. 3. Giáo viên tốt sẵn sàng thừa nhận những điều họ không biết Thật xấu hổ cho một người giáo viên khi ở vào tình trạng buộc phải học thứ gì đó mới. Ai đó khác trong lớp học biết một điều mà bạn không biết. Điều đó có thể rất khó chịu, người học có thể sẽ bịt tai lại và tỏ thái độ chán ghét những đặc quyền của người đang trong vai trò giảng dạy. Đó là lý do tại sao một kỹ năng cơ bản khác của một giáo viên tốt là thừa nhận rằng họ, trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống, không biết hay thậm chí là kém cỏi. Điều này dường như có thể làm suy yếu uy lực của họ trong lớp học. Nhưng thật ra, hoàn toàn trái ngược lại, nó tạo ra một bầu không khí thiện chí và khiêm tốn, khiến người học cảm thấy thoải mái hơn. Họ có thể chưa hiểu rõ một vấn đề nhất định mà giáo viên của họ đang truyền tải nhưng nhìn chung, họ biết rằng mình không phải là một bản thể thua kém giáo viên – và vì vậy, họ dám đối mặt với sự thiếu hiểu biết của mình trong một lĩnh vực nhất định và tuân theo kỷ luật trong việc khắc phục những thiếu sót đó một cách tốt nhất. 4. Giáo viên tốt biết cách chọn thời điểm Khi là một giáo viên tồi, chúng ta có xu hướng tự động cố gắng dạy về một vấn đề ngay khi tranh cãi xuất hiện, thay vì chọn một thời điểm mà có nhiều khả năng người học sẽ tham gia được tốt hơn. Khi xung đột xảy ra, đây không phải là thời điểm tốt nhất cho một bài học. Chẳng hạn, chúng ta có thể phải đợi một thời gian, như là 3 ngày sau cuộc tranh cãi, chỉ để chọn được một cơ hội phù hợp để đối phó với vấn đề tiềm ẩn phía sau. Khi bạn đời của chúng ta đang xếp bát vào máy rửa và ngâm nga một bài hát, đó là thời điểm tốt nhất để nhắc lại một cách vui vẻ và hồn nhiên điều gì đó đã khiến chúng ta thực sự phát điên một thời gian trước và ở thời điểm đó, chúng ta đáng tiếc lại giữ im lặng. Như chúng ta đang bắt đầu thấy, chúng ta càng cảm thấy tuyệt vọng bên trong, chúng ta càng có ít cơ hội để thuyết phục được người khác một cách hiệu quả. Thật không may, chúng ta thường kết thúc những bài giảng phức tạp và khó truyền đạt nhất vào thời điểm chúng ta cảm thấy mệt mỏi và áp lực nhất. Chúng ta phải đối mặt với nỗi sợ hãi rằng, nếu chúng ta không bắt đầu giải quyết vấn đề này ngay bây giờ, một vấn đề khác sẽ xảy ra ngay sau đó và cứ thế các vấn đề sẽ liên tục xuất hiện và mãi mãi không thể kiểm soát. Thật ra là không phải vậy. Chúng ta nên tự tin hơn rằng, việc không ngay lập tức nhảy thẳng vào vấn đề, trên thực tế, sẽ cho phép ta khắc phục nó đúng cách hơn một chút ở một thời điểm phù hợp. 5. Giáo viên tốt cũng là học sinh tốt Giáo viên tốt biết rằng tất cả mọi người đều có rất nhiều thứ cần phải học và ai cũng đều có những kiến thức hữu ích để truyền đạt lại cho người khác. Chúng ta đừng bao giờ nổi giận nếu ai đó đang cố gắng giảng giải cho chúng ta điều gì đó và phản bác lại bằng những câu kiểu như: “Tôi muốn bạn chấp nhận tôi đúng như những gì tôi đang có!”. Chỉ có một sinh vật hoàn hảo không tì vết mới không muốn thay đổi điều gì từ bản thân (và sinh vật đó thì, đương nhiên, không tồn tại!). Đối với tất cả chúng ta, học tập và giảng dạy là cách duy nhất để ta có thể tiếp tục tiến bộ và đó là lý do tại sao chúng ta nên chào đón chúng như những món quà thực sự. Bài viết của tác giả Alain de Botton, một nhà triết học và một tác giả nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Sách của ông thường mang tính thảo luận về nhiều chủ đề đương đại khác nhau, nhấn mạnh sự liên quan của triết học với cuộc sống hàng ngày. Bài viết gốc: How to be a good teacher Tác giả: Kobe
Quan điểm của Kobe
1. Hội chứng “vịt con” là gì? Bạn có bao giờ cảm thấy phim hoạt hình bây giờ không hay bằng hoạt hình bạn xem lúc nhỏ, cầu thủ thời nay đá không hay bằng cầu thủ thời trước, ca sĩ bây giờ hát không hay bằng ca sĩ ngày xưa v.v… Có thể một phần đúng là do “Thời nay” không bằng “Thời xưa” thật, nhưng có một điều chắc chắn là phần lớn sự sụt giảm chất lượng ấy chủ yếu xuất phát từ tâm lý của chúng ta, được gọi là Hội Chứng “Vịt Con”. Khi vịt con mới nở, nó coi vật thể chuyển động đầu tiên nó nhìn thấy là mẹ. Tất nhiên, thông thường, mẹ vịt sẽ ấp trứng và đón các con mình thoát khỏi vỏ trứng đầu tiên, nhưng lỡ chẳng may khi trứng nở, vịt mẹ lại kiếm mồi hay tắm rửa và tình cờ một chú gà đi ngang qua những quả trứng, bầy vịt con sẽ coi chú gà đó là… mẹ. Ở con người, hội chứng vịt con dùng để chỉ việc con người có xu hướng coi những trải nghiệm đầu tiên, những cảm xúc đầu tiên, những sự vật tiếp xúc đầu tiên là “tốt nhất”, “chuẩn nhất”. Chúng ta có thể lấy một ví dụ trong giới thể thao, cụ thể là môn thể thao vua: Những người thời trước từng say mê xem bóng đá tấn công sẽ nhận xét về bóng đá thị trường bây giờ là “thiếu lửa, toan tính, nặng về cơ bắp, thiếu sáng tạo v.v…”; ngược lại, những người “sinh sau đẻ muộn” và mới xem những trận bóng đầu tiên, nếu có tìm hiểu về lối bóng đá tấn công ngày trước, có thể nói là “thiếu kỷ luật, thiếu chiến thuật, không hiệu quả, rườm rà”. Nếu bạn đang xem một bộ phim truyền hình nhiều tập, được một nửa phim mà có một diễn viên trong ekip phải tạm biệt khán giả vì công việc riêng, một diễn viên mới vào đóng thay thì có thể nói, hầu như không bao giờ diễn viên mới có thể chiếm được cảm tình với khán giả như diễn viên cũ. Hoặc giả sử bạn nghe thấy tên một bài hát mới nổi, tra bài hát ấy trên mạng và tình cờ nghe thử “bản cover” của một người khác hát và thấy hay, thậm chí sau này có nghe bản của ca sĩ chính bạn cũng thấy không hay bằng bản cover. Ngược lại, phần đông những người khác khi nghe ca sĩ chính hát rồi sẽ thấy các bản cover không hay bằng. Phim thời nay thì nhiều kỹ xảo, hình ảnh đẹp hơn hẳn ngày trước nhưng không ý nghĩa, tình cảm và mang lại cho người xem nhiều cảm xúc bằng phim ngày xưa v.v… Nhìn chung, “hội chứng vịt con” không có gì quá nghiêm trọng nhưng thường làm chúng ta nhìn mọi thứ với con mắt thận trọng, khắt khe và không đón nhận cái mới. Về cơ bản, hiệu ứng này hạn chế sự phát triển, sự đổi mới và sức sáng tạo của mỗi người nói riêng và xã hội nói chung. Tuy nhiên, một mặt nó cũng giúp con người không dễ dàng lãng quên những giá trị xưa cũ, từ đó đặt ra thử thách cho những giá trị mới đó là phải không ngừng phát triển để tốt hơn, hiệu quả và độc đáo hơn. Đây là một hội chứng tâm lý mà gần như ai cũng mắc một cách tự nhiên, nên không có cách nào phòng tránh. Quan trọng là chúng ta biết đến nó, để nếu bắt gặp mình đang giống như “những chú vịt con” thì hãy tự nhắc nhở bản thân có cái nhìn thật khách quan hơn để đón nhận và cho cái mới cơ hội, đồng thời bản thân cũng có thêm nhiều sự trải nghiệm hấp dẫn và lí thú. Không có gì là vĩnh cửu, mọi thứ đều phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu cuộc sống, và chúng ta cũng cần tập thay đổi định kiến thì mới hòa nhập được với thế giới đổi thay từng ngày. 2. Tại sao ta từ chối khởi đầu mới? “Chào bạn, mình đã học xong B1 và muốn tham gia lớp học trình độ B1+ hoặc B2!” “Vâng, bạn cho chúng mình kiểm tra qua trình độ của bạn nhé. Đây là bài tập…” … “Chúng mình rất tiếc phải thông báo là bạn chưa đủ điều kiện tham gia lớp học như bạn yêu cầu. Lý do như sau:… Với kết quả này mình khuyên bạn tham gia lại lớp học trình độ A1 của bọn mình!” Sau đó, à thì thật ra trong đại đa số trường hợp là không còn sau đó nữa. Đối với số ít bạn không quen nghe chỉ trích, việc chỉ ra các bạn thiếu sót đến mức nào dù đã học lâu là quá đủ để các bạn chấm dứt trò chuyện. Đối với phần đông còn lại, dù hiểu được bản thân thiếu sót ở đâu thì cũng rất khó để các bạn ấy chấp nhận học lại từ trình độ dưới. Lý do là bởi: “Tôi đã học qua trình độ đó rồi mà…” Nếu so sánh với các câu chuyện phía trên, hẳn ta cũng thấy rằng sự khác biệt là không quá nhiều. Việc phải học lại ở một trình độ thấp hơn nhiều trình độ mình mong muốn là một cản trở tâm lý quá lớn, ngay cả khi người học biết rằng những vấn đề được chỉ ra là đúng. Ở thời điểm các bạn liên hệ đăng ký học, ấn tượng của các bạn về quan điểm, phương pháp dạy cũng như niềm tin vào thành tích khi học với bọn mình chắc hẳn rất tốt. Thế nhưng, ngay khi yêu cầu học lại xuất hiện, lập tức hiệu ứng “vịt con” có tác dụng và sự so sánh một thứ chưa trải nghiệm với một thứ đã từng trải nghiệm thường sẽ có kết quả: tôi từ chối một khởi đầu mới! Dĩ nhiên rồi, không có gì có thể đảm bảo rằng học lại với bọn mình là lựa chọn tốt nhất hoặc là bạn chắc chắn sẽ trở nên tốt hơn cả! Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sự việc, trong đó, phần lớn đến từ chính nỗ lực và sự nghiêm túc trong một quá trình đủ dài từ chính cá nhân người học. Nhưng nếu bạn đang đứng ở giữa và phân vân không biết nên làm gì, hãy cân nhắc lựa chọn mới một cách thật khách quan nhé. Không phải mọi sự khởi đầu mới đều tốn tiền bạc hay thời gian đâu! Lấy cảm hứng từ bài viết gốc tựa đề “Hội chứng vịt con” từ Fanpage “Tâm lý học tội phạm”. Tác giả: Kobe Minh họa: Minh Lý
“Ngoài biển thì vô số cá nhưng có lẽ với họ, mỗi ngày 3 con cá cho đủ 3 bữa ăn là đủ. Điều đó cũng giống như việc người học chỉ học để phục vụ mục đích thi cử, và khi đạt được cũng là lúc họ ngừng “nhận thêm cá”” Chuyện kể rằng, ở một làng chài nọ có một thanh niên đi câu cá. Trên đường về, đang xách giỏ cá trên tay, anh gặp một người ăn xin sắp chết đói. Thương tình, anh bắt mấy con to nhất trong giỏ cá của mình vừa đi câu về cho người ăn xin. Người ăn xin đã nướng cá ăn và thoát được cơn đói. Vui vẻ, tiếp tục chặng đường về, gặp anh bạn hàng xóm, anh vui miệng kể lại câu chuyện mình vừa làm. Anh bạn hàng xóm lắc đầu bảo rằng anh làm như vậy không chắc đã tốt. “Không chỉ cho cá, cậu nên cho người ăn xin cần câu để ông ta tự mình đi câu kiếm sống. Không tin, ngày mai cậu đi qua sẽ thấy người ăn xin đó vẫn bị cơn đói hành hạ” – anh hàng xóm nói. Bán tín bán nghi, ngày hôm sau anh thanh niên rủ anh bạn hàng xóm cùng đi câu. Khi trở về, quả như lời anh hàng xóm nói, hai người gặp lại người ăn xin đang nằm lả bên vệ đường. Anh thanh niên lại cho người ăn xin cá và anh hàng xóm cho người ăn xin cần câu. Cả hai trở về trong tâm trạng vui vẻ. Trên đường về hai người gặp một anh bạn khác cùng xóm. Cả hai hào hứng kể lại câu chuyện trên cho anh hàng xóm này nghe. Anh hàng xóm này lắc đầu nói: “Các cậu làm vậy chưa ổn. Cho cần câu rồi, nếu không chỉ cho ông ta cách câu thì ông ta câu thế nào được cá. Ngày mai trở lại các cậu sẽ thấy người ăn xin vẫn bị đói”. Ngày hôm sau cả ba người cùng đi câu. Khi trở về, quả như lời anh hàng xóm nói, ba người gặp lại người ăn xin đang nằm quắp chiếc cần câu đói lả bên vệ đường. Anh thanh niên lại cho người ăn xin cá và anh hàng xóm sửa lại cần câu, anh bạn hàng xóm mới giảng giải tỉ mỉ phương pháp câu cá, từ mắc mồi câu đến phương pháp câu từng loại cá… Họ ra về trong tâm trạng đầy hưng phấn, tin chắc từ nay người ăn xin sẽ không sợ đói nữa. Trên đường về, đang bàn luận rôm rả thì cả 3 gặp lão ngư ông trong làng. Nghe thấy cả 3 hào hứng nói chuyện, lão ngư đứng lại, hỏi chuyện 3 chàng trai một cách cặn kẽ. Nghe xong, lão ngư ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu nghi hoặc: “Các cậu đã làm đúng, thế nhưng lão nghĩ chưa đủ. Lão chỉ sợ thiếu một điều có lẽ còn quan trọng hơn. Các cậu cho người ăn xin công cụ, kỹ năng, phương pháp, tôi tin người ăn xin này vẫn đói!”. Thấy ba thanh niên ngơ ngác, lão ngư lên tiếng giải thích: Thứ nhất, người ăn xin làm nghề này nhiều năm, nó đã ngấm vào máu của ông ta, và đó là thói quen của ông ta. Ông ta không có khái niệm tự đi kiếm miếng cơm manh áo, chỉ tâm niệm làm sao xin được miếng ăn mà thôi. Vì vậy trước tiên các cậu cần giúp ông ta định hình lại suy nghĩ. Thứ hai, như các cậu đã biết, không phải cứ thả mồi xuống là đã có cá. Đôi khi phải kiên nhẫn câu cả tiếng, cả buổi…có khi cả ngày không được con nào. Do vậy các cậu cần chỉ ông ta biết về bài học kiên trì. Thứ ba, có một yếu tố cực kỳ quan trọng, đó chính là niềm tin. Lão đã từng hỏi chuyện ông già ăn xin ấy rằng: “Sao lão còn sức lực dồi dào, sao không học một nghề gì đó để kiếm sống, hoặc có thể đi câu cùng tôi?”. Và ông ta đã trả lời là: “Tôi không theo ông được, tôi sinh ra đã mang phận ăn xin rồi, từ đời cha mẹ đã làm nghề này, số tôi khổ sẵn rồi, tôi không làm được cái gì nên hồn cả!”. Do vậy cái mà người ăn xin thiếu không phải là công cụ, kỹ năng hay phương pháp mà ông ta thiếu thái độ đúng đắn! Cả ba nghi hoặc, chưa thực sự tin lời của lão ngư, nhưng để kiểm tra, ngày hôm sau nữa, ba thanh niên cùng rủ lão ngư đi câu. Không ngờ rằng, trên đường về nhà, cả bốn người gặp người ăn xin nọ vẫn đang ngồi bên vệ đường đói lả xin ăn. Cả 3 chàng trai hi vọng lão ngư có thể dùng kinh nghiệm của mình dạy lại ông lão ăn xin. Tuy nhiên, lão ngư chần chừ: “Thái độ là phải đào luyện thường xuyên nhờ sự định hướng, tác động của xung quanh, không thể ngày một ngày hai mà có được…”. Câu chuyện quen thuộc kể trên đã được đưa vào rất nhiều bài viết khác nhau về việc định hướng nghề nghiệp cũng như cải thiện kĩ năng sống. Tuy vậy, trong bài viết này, mình muốn mượn câu chuyện để bàn về một vấn đề khác: cách tiếp cận tri thức. Có thể nói, với sự phát triển của Internet, các công cụ tìm kiếm, mạng xã hội cũng như các ứng dụng nghe nhìn khác, thời đại con người đi tìm thông tin đã được thay thế bằng việc thông tin tìm đến con người. Chúng ta mở mắt ra với những thông tin mới nhất từ News Feed của Facebook, nhưng lại là những nội dung đã được chính chúng ta chọn lọc từ trước. Chúng ta không còn tha thiết xem ti vi, thay vào đó chúng ta lựa chọn xem những thứ chúng ta thích từ YouTube và xem những phim được bạn bè giới thiệu từ Netflix. Chúng ta mua một món hàng trên mạng thông qua niềm tin vào những lượt đánh giá từ những người mua trước. Tóm lại, chúng ta thật sự chỉ quan tâm tới những gì mà chúng ta muốn quan tâm mà thôi. Vậy điều này sẽ ảnh hưởng gì đến việc tiếp cận tri thức? Tri thức thì rộng vô bờ bến và đáng tiếc là rất nhiều tri thức sẽ nằm ngoài những việc mà chúng ta quan tâm hàng ngày. Thì rõ ràng, tri thức sẽ không nằm nhiều ở việc hóng xem hôm nay Ngọc Trinh livestream bán gì hay cô Phương Hằng sẽ “bóc phốt” ai. Thế điều gì sẽ xảy ra nếu thứ mà ta quan tâm lại không mang đến cho ta tri thức? Có 2 điều sẽ xảy ra: Thứ nhất, chúng ta phó mặc việc tiếp nhận tri thức cho việc học trên lớp và thứ hai, chúng ta đặt toàn bộ gánh nặng tri thức lên người truyền đạt kiến thức cho mình. Điều đầu tiên sẽ dẫn tới việc chúng ta chỉ tiếp thu thụ động kiến thức từ một nguồn duy nhất và từ đó tự tạo ra cái nhìn một chiều. Hơn thế nữa, theo như mô hình “Learning Pyramid” của National Training Laboratories, mức độ tiếp thu kiến thức cao nhất của việc học thụ động từ trên lớp chỉ đạt 5%, đứng chót trong toàn bộ các phương pháp học tập. Điều thứ hai sẽ dẫn tới một hệ quả còn nghiêm trọng hơn: Chúng ta muốn người truyền đạt kiến thức phải là một cuốn bách khoa toàn thư (tức điều gì cũng phải biết) và đồng thời cũng phải là một “Mr. Right” (tức lúc nào cũng phải đúng). Theo các bạn, một nhân vật thỏa mãn 2 điều trên có tồn tại trên cõi đời này hay không? Theo mình là không, bởi vì một người cùng lắm chỉ có thể biết mọi thứ mà những người khác đã biết, và cùng lắm cũng chỉ có thể luôn luôn đúng nếu so sánh với những thứ đã được chứng minh là đúng mà thôi. Chưa kể đến những thứ chưa xuất hiện, chỉ riêng những thứ đã xuất hiện và được nghiên cứu cũng còn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết hay phân biệt rõ đúng-sai. Khoa học đã vậy, hà cớ gì bắt một người phải trở nên hoàn hảo? Cùng quay lại câu chuyện kể trên, mình nhận ra rằng, ngày càng có nhiều người học rơi vào trạng thái “xin con cá”. Ngoài biển thì vô số cá nhưng có lẽ với họ, mỗi ngày 3 con cá cho đủ 3 bữa ăn là đủ. Điều đó cũng giống như việc người học chỉ học để phục vụ mục đích thi cử, và khi đạt được cũng là lúc họ ngừng “nhận thêm cá”. Tuy nhiên, điều nguy hiểm hơn ở đây là, họ sẽ giao luôn nhiệm vụ “kiếm cá cho họ ăn” cho những anh thanh niên hay lão ngư ông mà họ tin tưởng. Vậy điều gì sẽ xảy ra khi những nhân vật kể trên bị ốm và không thể mang cá đến cho họ một thời gian? Điều gì sẽ xảy ra khi chẳng may những nhân vật đó vô tình đưa cho họ một con cá bị ươn? Như đã nói, tri thức là vô hạn. Vậy thì, thay vì chọn lấy một vài “con cá” nhất định để đối phó với kì thi, chẳng phải chúng ta nên dành thời gian đó để hướng dẫn người học cách sử dụng “cần câu” và tự mình khám phá tri thức mới trong tương lai hay sao? Thế nhưng, cũng như câu chuyện kể trên, mọi kĩ năng, phương pháp hay công cụ sẽ đều không có giá trị, nếu thái độ của người tiếp nhận không thay đổi. Vậy thì, giáo dục để được coi là thành công, liệu có xuất phát từ người dạy hay không? Theo mình, chính người học mới là nhân tố quyết định cho mọi thành công trong giáo dục. Nhưng quyết định ở đây không phải việc họ có thể tự kiếm sẵn cá từ trước hay thừa hưởng vô số cá từ người khác, quyết định ở đây là việc họ dám tin rằng, mình không phải sinh ra để làm ăn xin và sẵn sàng thay đổi! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Trong bối cảnh virus Corona với các biến chủng khác nhau vẫn đang tiếp tục hoành hành tại Việt Nam, việc các cơ sở giáo dục phải tạm thời đóng cửa và cố gắng duy trì hoạt động bằng hình thức dạy online đang ngày càng phổ biến. Với tư cách là một người đã dạy online một thời gian khá dài, mình muốn mang đến một vài góc nhìn cá nhân như sau: Đầu tiên, mình muốn nhấn mạnh một điều: mình dạy online không phải vì dịch. Chuyện này quá dễ hiểu, mình ở Đức và hầu hết các bạn học viên đều còn ở Việt Nam, không dạy online chắc mình bay về Việt Nam mỗi cuối tuần quá 😀 Tuy dạy online đại bộ phận thời gian, nhưng thật ra mình đã bắt đầu sự nghiệp dạy tiếng Đức ở một lớp học offline nhỏ tại Hà Nội. Cảm giác đầu tiên khi phải tập cách truyền đạt kiến thức thông qua màn hình máy tính rõ ràng là không được thoải mái. Nó cũng giống như khi yêu xa vậy thôi. Dù công nghệ có kéo gần khoảng cách của chúng ta mức nào thì nó cũng không thể thay thế được cảm giác mặt đối mặt hay những hoạt động cần đến sự tương tác trực tiếp khác. Nhưng cũng lại tương tự khi yêu xa, dù cảm giác có thể không được chân thực bằng, nhưng dĩ nhiên là chả có đôi nào vì thế mà ngừng gọi điện thoại cho nhau cả. Trừ khi mình không còn thích dạy học nữa. Điều này thì chắc là không xảy ra rồi, và thế là mình tiếp tục dạy online. Rồi thì mình kéo thêm người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba tham gia dạy cùng. Và cứ thế, chúng mình đã từ lúc nào trở thành một đội ngũ dạy tiếng Đức online. Dạy bằng hình thức nào cũng vậy, sẽ luôn có cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Thiếu đi tương tác trực tiếp và những hoạt động kể trên, nhưng nhờ có các phần mềm hỗ trợ mà một đứa không biết vẽ và chữ cũng không lấy gì làm đẹp như mình bỗng dưng cảm thấy tự tin hẳn, cảm giác cứ như là dùng bảng thông minh vậy. Hơn thế nữa, dạy online giúp mình tiếp cận với những học viên từ khắp nơi trên thế giới, những người mà nếu mình mở lớp học tại cố định một địa điểm thì có lẽ sẽ rất khó để gặp được. Mình đánh giá rất cao điều này, vì với mình, dạy học không chỉ là một nghề để kiếm tiền, nó còn giúp mình khắc phục một vấn đề cố hữu mà mình gặp phải từ bé: sống khép kín và ngại tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau bóng rổ, dạy học chính là cây cầu thứ hai đưa mình đến với rất nhiều người mà trước đây mình không nghĩ mình có ngày sẽ quen và kết bạn với họ. Tuy ngoài dự tính nhưng giờ nó đã trở thành một lý do quan trọng khiến mình muốn tiếp tục theo đuổi việc dạy học, dù ngay thời điểm này thì việc làm song song khiến mình cảm thấy hơi quá sức. Tuy nhiên, dù là như vậy, khi thật sự có thể dành toàn bộ thời gian cho dạy học, mình chắc chắn sẽ ưu tiên việc dạy trực tiếp hơn. Thì rõ ràng mà, ai lại thích yêu đương qua màn hình máy tính bao giờ 😀 Vậy nhưng, mình không hề và cũng không có ý định phán xét việc yêu xa hay yêu gần của các cặp đôi. Ngày trước, hồi mình và vợ mình còn yêu xa, nhiều người cũng hay hỏi han việc yêu xa kiểu gì vậy. Thậm chí, không ít người còn cho rằng hai đứa này kiểu gì cũng chia tay. Đấy thế nhưng mà bọn mình có chia tay đâu, bọn mình còn đang đi du lịch với nhau trực tiếp đây này 😀 Dạy học cũng vậy. Dù là online hay offline, điểm mấu chốt vẫn là con người. Điều kiện cần là người dạy đủ kiến thức, đủ tâm huyết và đủ thời gian để có thể mang đến cho người học những gì tốt nhất. Điều kiện đủ là người học xác định rõ mục tiêu, hết lòng theo đuổi mục tiêu đó và hợp tác hết mình với người dạy. Có được điều đó, thì hình thức dạy học là gì, liệu có còn quá quan trọng? Lý do mình viết bài này không phải để cổ súy cho hình thức học online, dù chính bọn mình đang hoạt động với hình thức này. Mình hiểu tất cả những điểm yếu của hình thức này và cũng muốn trực tiếp đứng lớp nếu cơ hội đến. Thế nhưng, mình tôn trọng tất cả những người dạy học, dù dưới hình thức nào. Không bàn đến hay dở và đúng sai, chỉ riêng việc họ không từ bỏ khi khó khăn ập tới đã là điều làm mình cảm thấy khâm phục. Ngoài ra, như đã nói ở trên, điểm mấu chốt không phải hình thức dạy, mà với mình là con người, cả người dạy lẫn người học. Cũng giống như khi chúng ta đổ lỗi cho công nghệ đã khiến con em chúng ta trở nên lười vận động hay lười giao tiếp như thế nào, vấn đề vốn dĩ không nằm ở công nghệ, thứ sẽ luôn thay đổi theo thời gian và tạo ra những thói quen mới. Vấn đề về cơ bản, luôn nằm ở phía con người, điều khá khó khăn để nhận ra và cũng càng khó hơn để chấp nhận. Vì thế, các bạn thân mến, hãy bắt đầu học khi các bạn muốn học, sẵn sàng hết mình với việc học và khi các bạn cảm thấy đã tìm được một người dạy đủ khiến bạn tin tưởng. Nếu tất cả những điều đó đã có đủ và chỉ thị 16 vẫn còn hiệu lực, vậy thì hãy học online đi nhé! Tác giả: Kobe Minh họa: Huyền Kiu
Đối với tất cả những bạn đã sang và sống một thời gian ở nước ngoài, sau đó đã quen và hiểu được văn hóa, cuộc sống, con người bản địa, chắc hẳn các bạn đều cảm thấy rất tuyệt. Bạn có những người bạn bản địa và tham gia vào các hoạt động thường nhật một cách tự tin bằng tiếng bản địa, như mua sắm, đặt đồ ăn hay làm việc. Bạn không hề còn cảm thấy bạn là một “người ngoại đạo” như những tháng đầu tiên ở đất nước mới nữa. Thật sự là bạn sẽ cảm thấy cực kì ổn cho đến khi một người bạn đến và hỏi bạn rằng: “Cậu sử dụng thứ tiếng này trôi chảy chứ?”. Chắc hẳn bạn sẽ khựng lại một giây và tự hỏi bản thân rằng: “Mình làm được điều đó chưa nhỉ?”. Rất khó để có một thước đo tiêu chuẩn định nghĩa rằng, một người có thực sự trôi chảy với một thứ tiếng hay không. Nhiều người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn đã thuộc nằm lòng tất cả các từ có trong từ điển, có thể diễn đạt 100% tất cả những gì bản thân muốn mà không mắc bất kì lỗi sai nào dù là nhỏ nhất hay có thể nói mà không cần tốn chút thời gian nào suy nghĩ để tìm ra từ cần thiết. Cũng không ít người cho rằng, trôi chảy một ngoại ngữ là khi bạn vượt qua những kì thi chuẩn hóa với số điểm cao chót vót. Nhưng nếu đó là thước đo của việc sử dụng trôi chảy một ngoại ngữ, bạn có chắc là bạn có thể làm được điều đó với tiếng mẹ đẻ của bạn hay không? Nói ví dụ, rõ ràng chúng ta cực kì trôi chảy tiếng Việt, nhưng chúng ta có thể nói mà không cần suy nghĩ chọn từ hay nói mà không mắc bất kì lỗi nhỏ nào hay không? Chúng ta trôi chảy tiếng Việt và chúng ta khẳng định bản thân sẽ vượt qua kì thi C2 tiếng Việt một cách dễ dàng chứ? Có lẽ là chưa chắc… Thay vào đó, chúng ta thường cho rằng, việc trôi chảy một ngoại ngữ gắn liền với tốc độ nói, khả năng diễn đạt đơn giản dễ hiểu và đương nhiên là liền mạch nữa. Quan trọng không kém là ta có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau và với nhiều đối tượng khác nhau. Thế tóm lại, thật ra ta nên dựa vào điều gì để đánh giá về mức độ trôi chảy khi sử dụng một ngôn ngữ? Sau đây, mình sẽ giới thiệu tới các bạn 7 dấu hiệu cho thấy bạn đang sử dụng ngoại ngữ một cách trôi chảy. 1. Người bản xứ không còn thay đổi cách họ nói chuyện với bạn Cũng tương tự như khi chúng ta là người Việt và nói chuyện với một người bạn châu Âu đang học tiếng Việt. Rõ ràng, chúng ta nhận ra rất nhanh người đối diện có thật sự lưu loát tiếng Việt hay không. Nếu không, xu hướng của chúng ta sẽ là nói chậm hẳn lại để người đối diện có thể hiểu được và theo kịp nội dung cuộc nói chuyện. Điều tương tự sẽ xảy ra khi chúng ta sang một nước khác. Bạn đơn giản là không thể che mắt một người bạn xứ về trình độ tiếng của mình nếu bạn và họ nói chuyện tối thiểu là 5 phút. Vì vậy, nếu cuộc nói chuyện kéo dài và bạn nhận ra, người bản xứ không hề nói chậm lại, đó là chỉ dấu đầu tiên cho thấy: bạn đang sử dụng ngôn ngữ của họ trôi chảy rồi đấy! 2. Bạn có thể nghe lỏm được các cuộc hội thoại Một dấu hiệu khác là khi bạn đi đến quán Cafe hay ngồi ăn trong một nhà hàng, lắng nghe những người xung quanh nói chuyện với nhau và cảm thấy đó không còn chỉ là tiếng ồn như động cơ máy bay nữa. Bạn thật sự có thể hiểu được họ đang nói về chủ đề gì cũng như cảm xúc của họ ra sao khi nói về chủ đề đó. Đây là một bước tiến cực kì lớn, bởi vì tốc độ nói chuyện của 2 người bản xứ với nhau thường rất nhanh và họ cũng sử dụng nhiều những từ ngữ không chính thống hơn. Ngoài ra, bạn có thể hiểu người khác nói gì mà không cần nhìn vào mắt hay chuyển động cơ thể của họ để phán đoán ý tứ. Đây là một trong những chỉ dấu mình cho là đáng giá nhất. 3. Bạn khám phá ra một thế giới mới của sự hài hước Chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng: ngay cả việc trở nên hài hước bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình cũng là một điều cực kì khó khăn. Ta cần phải biết rất nhiều từ lóng, hiểu rất sâu về ngôn ngữ, về văn hóa, phong tục tập quán hay nắm được các trào lưu thịnh hành,… Và bạn hãy thử tưởng tượng, bạn làm được điều đó với một ngôn ngữ khác! Bạn xem Standup-Comedy và không cần bạn bè giải thích lại. Bạn có thể đi chơi cùng bạn bè người bản xứ và có thể nói gì đó khiến tất cả cùng cười. Nếu làm được điều này, bạn hoàn toàn có thể tự hào về bản thân cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ của mình. 4. Bạn không còn sợ đi khám nữa Khi bạn còn chưa tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình, chắc hẳn suy nghĩ về việc đi gặp bác sĩ là một trong những điều khiến bạn sợ nhất. Không hẳn là bạn sợ đau, mà là bạn sợ bạn không thể diễn tả cho bác sĩ hiểu bạn đang gặp vấn đề gì. Hoặc bạn sợ bác sĩ giải thích cho bạn vài điều và bạn không hiểu nổi. Hoặc là vì bất đồng ngôn ngữ mà bác sĩ kê nhầm thuốc cho bạn. Nếu đến một ngày, bạn không còn sợ điều này nữa, đó cũng là một dấu hiệu cho thấy bạn đang dần trở nên trôi chảy hơn với ngoại ngữ. 5. Bạn biết cách sử dụng “bad words” Những người bản xứ thường cảm thấy khá hào hứng mỗi khi họ có cơ hội dạy cho các bạn nước ngoài về những từ bậy bạ ở nước mình (thừa nhận đi, các bạn cũng thấy thế với tiếng Việt đúng không?). Ban đầu, dĩ nhiên bạn cảm thấy khá lạ lẫm. Nhưng dần dần, bạn nhận ra những văn cảnh cụ thể để sử dụng những từ này mà không gây phản cảm, mà trái lại, còn làm người nghe cảm thấy hứng thú với câu chuyện của bạn hơn. Nếu làm được điều này, ngay cả khi là một người không bao giờ chửi bới, bạn vẫn có thể thể hiện rằng, bạn đang trên con đường trở nên trôi chảy với ngoại ngữ mà bạn sử dụng. 6. Bạn nắm được nội dung mà không quan tâm đến ngôn ngữ Mình nghĩ điều này chắc chắn là không thể khi các bạn mới bắt đầu với một ngoại ngữ. Nhưng nếu bây giờ bạn đang ngồi đâu đó, đọc một bài báo hay nghe một bản tin và hiểu được nội dung của nó. Sau đó, bạn suy nghĩ lại và chợt nhận ra, bạn không biết rằng nội dung bạn vừa gặp được truyền tải bằng thứ tiếng nào. Đó là một khoảnh khắc tuyệt vời và điều đó chứng minh rằng, bạn bắt đầu có khả năng chuyển đổi linh hoạt giữa tiếng mẹ đẻ và một ngôn ngữ khác, điều mà sẽ không chỉ giúp bạn cho thứ tiếng đó, mà còn cho cả những ngôn ngữ mới mà bạn sẽ học sau này. 7. Bạn biết mình vừa mắc lỗi gì Tất cả những người, dù đã sử dụng thành thạo một ngôn ngữ cỡ nào, họ vẫn sẽ mắc lỗi. Điểm khác biệt so với những người mới học là ở chỗ, họ biết rõ họ mắc lỗi gì và như thế nào. Và nếu là một người trôi chảy với thứ tiếng đó, bạn sẽ ngày càng sửa lỗi của bản thân thường xuyên hơn và thậm chí là ngay lập tức. Vì thế, hãy tự hào nếu bạn có thể làm được điều này, vì đây là kĩ năng cách rất rất xa một người mới học ngôn ngữ hay thậm chí đang ở trình độ trung cấp của ngôn ngữ đó. Tác giả: Kobe
Học ngoại ngữ là một quá trình rất dài và đòi hỏi người học rất nhiều cố gắng, nỗ lực mới có thể đạt đến trình độ cao nhất định. Chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng đã từng ít nhất một lần trải qua chặng đường như vậy và với tư cách là một người theo học, thường thì những câu hỏi sẽ là: “Tiếng ABC có khó học không?”; “Mất bao lâu thì đạt trình độ XYZ?”; “Làm thế nào để nói tiếng ABC được như người ABC?”; vân vân và vân vân. Tiếng Đức dĩ nhiên không phải một ngoại lệ. Vậy thì đã có bạn nào từng đặt ra câu hỏi này chưa: “Thế học tiếng Đức chốt lại là học cái gì?”Dựa trên hiểu biết cá nhân cũng như kinh nghiệm thực tế, mình xin đề xuất một mô hình riêng đối với việc tiếp cận tiếng Đức: mô hình chiếc xe lưu động. Với quy mô của một bài viết truyền thông, mình sẽ không đi sâu vào phân tích từng khía cạnh và làm rõ các giải pháp cụ thể mà chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu và nêu ra ý nghĩa chung của mô hình này. Rất hi vọng trong tương lai không xa, mình sẽ có cơ hội để cải tiến và mở rộng mô hình này ở một luận án nào đó xD! Bây giờ mình sẽ giới thiệu về mô hình chiếc xe lưu động. Đối với mình, chiếc xe lưu động chính là một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi nhưng có thêm lợi thế là có thể di chuyển khắp nơi. Tuy để so sánh cả một bầu trời kiến thức trong ngôn ngữ Đức với một ngôi nhà nhỏ xíu thì cũng có hơi khập khiễng, tuy nhiên chúng ta hãy tạm coi rằng, kiến thức chúng ta cần học chính là chiếc xe lưu động này và việc của chúng ta cần làm là làm cho nó vận hành tốt nhất có thể. Mình sẽ chia các chi tiết của ngôi nhà di động này tương ứng với các kĩ năng cần học đối với ngôn ngữ, cụ thể như sau: 1. Phát âm (Aussprache) = Cánh cửa Xét về mặt độ lớn cũng như quy mô, rõ ràng cánh cửa không là gì so với toàn bộ ngôi nhà. Vậy nhưng, nếu không thể bước qua cánh cửa, chúng ta cũng khỏi bước vào nhà luôn, bất kể trong nhà có cái gì. Đó là lý do mình so sánh cánh cửa với việc học phát âm! Lượng kiến thức về việc học phát âm so với toàn bộ kiến thức chung về tiếng Đức thực tế là rất khiêm tốn. Tuy vậy, kiến thức có biết nhiều hơn nữa mà phát âm sai thì đối với mình cũng không có giá trị gì. Cũng như việc sở hữu một ngôi nhà chất lượng mà không thể bước vào vậy, nói chung là không vui lắm… 2. Vốn từ vựng (Wortschatz) = Đồ đạc trong nhà Một ngôi nhà càng đầy đủ khi nó sở hữu càng nhiều đồ đạc, càng tiện nghi khi nó sở hữu càng nhiều thiết bị hiện đại, cao cấp, đắt tiền. Điều này là không phải bàn cãi! Từ vựng cũng như vậy! Càng biết nhiều từ vựng và càng biết nhiều từ vựng cao cấp thì cuộc sống với tiếng Đức của chúng ta càng trở nên dễ chịu. Việc học từ vựng do vậy cũng như khi xây dựng nội thất của một ngôi nhà. Sẽ rất khó để biết chính xác ngay từ đầu là một ngôi nhà sẽ cần đồ đạc gì. Chúng ta có thể có thể sắm cho mình 1 số đồ đạc theo gợi ý từ kiến trúc sư, tuy nhiên chỉ có chính bản thân chúng ta, từ nhu cầu bản thân và theo thời gian, mới có thể biết chính xác thứ chúng ta cần thêm vào là gì. Vì vậy, hãy cho bản thân thời gian khi học từ vựng! 3. Ngữ pháp (Grammatik) = Cách sắp xếp đồ đạc trong nhà Hãy tưởng tượng bạn có hàng đống đồ đạc hiện đại, tối tân nhưng lại không biết cách tối ưu giá trị sử dụng của chúng. Chẳng hạn như thay vì treo lên tường thì bạn treo chiếc TV lên trần nhà, thay vì để bồn tắm nằm dưới mặt đất thì bạn lại dính nó vào tường,… Ngữ pháp, do vậy, là cách sắp xếp và sử dụng những đồ đạc mà bạn có một cách đúng đắn theo tiêu chuẩn. Ở giai đoạn đầu, khi mà bạn chưa có đồ đạc gì trong nhà hay thậm chí còn chưa bước được nổi vào nhà, dễ nhận thấy là việc học cách sắp xếp đồ là không hề quan trọng. Thế nhưng, theo thời gian, khi đã bước vào được nhà và số lượng đồ đạc đã nhiều lên, việc sắp xếp chúng một cách hợp lý đóng vai trò cực kì quan trọng, đặc biệt nếu các bạn tính đến việc sử dụng một ngôi nhà “Made in Germany” xD! 4. Tư duy ngôn ngữ (Sprachliches Denkvermögen) = Động cơ xe Đây là một khái niệm khá là khó để giải thích trong phạm vi một bài viết ngắn. Một chiếc xe lưu động hay một ngôi nhà di động, ngoài việc để ở, chức năng chính của chúng là giúp cho chủ sở hữu có thể đi khắp nơi và mang theo những tiện ích mà mình đã có. Sẽ thật tuyệt vời nếu có thể bước vào một ngôi nhà, sắm sửa đồ đạc tiện nghi và sắp xếp nó đúng cách. Nhưng nó sẽ mất đi một nửa giá trị ngay nếu tất cả những gì chúng ta có là một ngôi nhà đứng yên! Vâng, chừng nào chúng ta không thể hướng cách tư duy về ngôn ngữ của mình giống như một người bản địa, chừng đó tất cả những gì chúng ta có là một ngôi nhà không tiến về phía trước. Điều đó có nghĩa là, chúng ta có thể tận hưởng sự tiện nghi của nó trong một thời gian ngắn nhất định, nhưng không đời nào có thể cùng với nó đi đến những nơi mà ta chưa từng đến và do vậy, cũng khó có thể đạt được những giới hạn mới. Điểm này mình tin sẽ gây ra nhiều tranh cãi cho người đọc, nhưng mình xin phép để dành đến một dịp khác để làm rõ hơn tất cả những ý tưởng mình nhắc đến ở đây nhé! Trên đây là sơ lược về mô hình chiếc xe lưu động của mình đối với việc học và sử dụng tiếng Đức. Những hình tượng mình mang tới đồng thời cũng tượng trưng cho giá trị sử dụng và mức độ quan trọng của chúng trong việc tiếp cận với ngôn ngữ này. Bài viết này đặc biệt muốn dành tặng cho những bạn đang nghiên cứu và có ý định bắt đầu học tiếng Đức, hay rộng hơn là một ngoại ngữ mới. Mình tin những thứ mới luôn gây ra khó khăn cho tất cả, thế nhưng một cái nhìn và cách tiếp cận hợp lý sẽ giúp cho mọi người rất nhiều trong việc phân phối thời gian, sức lực, tiền bạc và cả sự tập trung nữa. Let’s work smart, not hard! Tác giả: Kobe Minh họa: Diệp Vũ
Một trong những vấn đề lớn nhất đối với các bạn học tiếng Đức nói chung chính là kĩ năng nói, đặc biệt khi bạn còn đang ở Việt Nam. Nếu các bạn theo dõi trang của tôi thường xuyên hơn sau này, các bạn sẽ nhận ra tôi là người cực kì dị ứng với phong cách học thuộc lòng mọi thứ của các bạn Việt Nam, học thuộc mẫu câu, học thuộc ngữ pháp, học thuộc cách viết, v.v. Tuy nhiên, trong bài viết này, để không làm loãng mục tiêu của nó, tôi tạm không đề cập đến cái hại của việc học thuộc mọi thứ hòng lấy điểm cao, mà sẽ để dành một dịp khác. Cái mà tôi muốn nói đến sẽ nằm ở phần tiếp theo đây. Kể một câu chuyện vui cho các bạn: Tôi đã từng dạy một nhóm học sinh ôn thi trình độ B1 và như nhiều bạn khác, kĩ năng nói của các em là tương đối yếu, dù tất cả các kĩ năng khác đều ở mức từ ổn đến khá, vốn từ cũng không phải quá hạn hẹp. Các em có thắc mắc rất nhiều rằng tại sao các em cố mãi mà vẫn không thể nói tốt lên được. Ngay lúc đó, tôi đã làm một thí nghiệm như thế này: Tôi dịch toàn bộ đề bài một đề thi nói mẫu ra tiếng Việt, và yêu cầu các em làm đúng những gì đề bài yêu cầu, bằng tiếng Việt. Các bạn có thể tưởng tượng ra tình hình chứ? Ở bài thi lên kế hoạch, hai em nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt hết sức gượng gạo và không thoải mái, mặc dù ngoài giờ học hai em nói chuyện khác hẳn như vậy. Vậy vấn đề ở đây, có thực sự nằm ở tiếng Đức? Theo tôi, không phải cái khó của tiếng Đức, mà chính tính chất của bài thi, hay nói rộng hơn là việc coi tiếng Đức như một „môn học“ giống như các em học ở trường, khiến cho các em đánh mất sự tự nhiên khi giao tiếp đời thường, thay vào đó là căng thẳng tìm cách để gây ấn tượng với giám khảo và đỗ bài thi. Tôi không phải là một người nói tiếng Đức quá giỏi hay phát âm quá chuẩn, nhưng điều tôi nhấn mạnh với các em học sinh của tôi là: Dù nói tiếng Việt hay tiếng Đức, tôi luôn nói với cùng một tốc độ, cùng một sắc thái, cùng một tông giọng và đương nhiên là cùng một cách diễn đạt. Xét cho cùng, muốn nói tốt hơn, thì bạn phải là chính bản thân bạn đã, chứ đừng biến mình thành người nói mấy câu được đóng khung và in ở trong sách. Đây là một vấn đề tương đối phức tạp và đa chiều, nên trong phạm vi bài viết này tôi không thể truyền tải hết. Tuy vậy, với kinh nghiệm của mình, tôi vẫn muốn tặng các bạn một lời khuyên nhỏ cho việc rèn luyện kĩ năng nói. Thay vì tìm kiếm xem nói thế nào cho đỗ bài thi, các bạn hãy để ý xem khi giao tiếp, các bạn hay nói những câu gì, nói như thế nào. Sau đó, hãy thử tìm hiểu xem, người Đức khi muốn nói vậy thì nói thế nào. Trong thời đại công nghệ như bây giờ, tôi nghĩ là không khó để có thể tìm ra câu trả lời cho một vấn đề, nếu các bạn thực sự muốn tìm hiểu nó. Sau khi đã là chính mình, tôi tin các bạn sẽ cải thiện kĩ năng nói một cách nhanh chóng, bởi vì các bạn đã quên đi tính chất của việc thi cử rồi! P/S: Kết quả của việc dạy theo phương pháp đó là cả 2 em học sinh của tôi đều thi đỗ B1 điểm cao ở cả 3 kĩ năng, trừ kĩ năng nói là điểm chỉ vừa đủ đỗ. Nhưng tôi tin là các em sẽ không trách tôi vì đã không giúp các em lấy 80, 90 điểm, mà có lẽ là sẽ cảm ơn tôi nhiều hơn vì đã để các em được là chính mình. Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Chào các bạn, hôm nay tôi đã quay trở lại để nói về một trong những chủ đề mà hầu hết người học tiếng Đức đều quan tâm, đó chính là nói tiếng Đức. Có một sự thật là, tiếng Đức các bạn nghe ở lớp học hay các kì thi từ những đoạn hội thoại cho sẵn từ trong băng, thực chất nó khác khá nhiều so với những gì các bạn nghe thường ngày ở ngoài xã hội. Trên thực tế, người Đức khi nói chuyện bình thường mắc khá nhiều lỗi sai về ngữ pháp, trật tự câu, sai giống của danh từ và rất rất nhiều lỗi sai khác. Điều này theo tôi là khá bình thường, bởi vì nếu các bạn để ý kĩ, không có bất cứ địa phương nào ở Việt Nam là phát âm được hoàn hảo tiếng Việt cả, chứ chưa nói đến có đúng ngữ pháp hay không. Bản thân tôi sinh ra ở Hà Nội và có một số lỗi sai mà tất cả mọi người đều chấp nhận, ví dụ như phát âm 3 chữ „r“, „d“, „gi“ hoàn toàn giống hệt nhau, thậm chí bạn sẽ bị nhìn từ đầu xuống chân nếu bạn phát âm chữ „r“ đúng chuẩn. Do vậy, bài viết hôm nay hướng tới việc giới thiệu cho các bạn những điểm khác nhau giữa ngôn ngữ được người Đức sử dụng trong đời sống hàng ngày, và ngôn ngữ mà các bạn dùng để viết hay là nghe được từ những đoạn hội thoại thu băng. 1. Rút gọn động từ Nếu bạn nào đã sang Đức được một thời gian chắc không còn lại gì với việc người Đức thường ít khi nói „ich habe“ mà thay vào đó là „ich hab“, không phải „wir haben“ mà „wir ham“. Đó chỉ là một trong số những ví dụ của việc rút gọn động từ trong văn nói, mà điều này người Đức làm khá là tùy hứng, tùy thuộc vào độ dài cũng như là cảm giác khi từ đó được đọc lên. Một số ví dụ khác có thể kể đến như là „sagen“ (ich sag, wir sag’n), „sehen“ (ich seh, wir seh’n) hay là „wären“ (ich wär heute vielleicht auch dabei). 2. Rút gọn thành phần câu Một ví dụ đặc trưng mà các bạn học A1 đã được học ngay từ những ngày đầu tiên: „Wie geht es dir?“ = „Wie geht’s?“. Ở đây chủ ngữ giả „es“ được viết gọn lại như các bạn đã thấy, còn tân ngữ thì thậm chí bị bỏ qua. Ngoài ra thì theo kinh nghiệm của mình, tôi thấy người Đức trong văn nói rất hay bỏ hẳn đi chủ ngữ giả „es“. Ví dụ như khi được hỏi „Was denkst du?“ thì người Đức sẽ trả lời „Mir ist egal!“, hay thậm chí „Mir egal!“. Theo nguyên lý mà tôi đã nêu là trong câu cần tối thiểu 2 thành phần chủ ngữ và động từ để hoàn chỉnh nội dung thì câu trả lời thứ 1 ở trên thiếu đi chủ ngữ, còn câu thứ 2 thiếu cả chủ ngữ lẫn động từ. Rõ ràng câu trả lời đầy đủ phải là „Es ist mir egal!“. Nhưng thế mới là văn nói. Vì nội dung bài viết không cho phép nên tôi sẽ nói đến các ví dụ khác vào một lần khác khi có cơ hội. 3. Rút gọn Artikel Đây là một tình huống thực tế mà tôi hầu như được nghe hàng ngày ở các cửa hàng. Ví dụ trong hiệu bánh: „Guten Tag! Ich hätte gern ‘ne Brötchen und ‘nen Kaffee“. Ở đây 2 unbestimmte Artikel là „ein“ và „einen“ được rút gọn lại như các bạn thấy. Đây là một trường hợp được dùng khá phổ biến trong văn nói, chắc tại nó nhanh hơn. Bản thân tôi khi không kịp nhớ ra giống của danh từ thì hay có thói quen biến tất cả thành ‘ne cho nhanh xD. 4. Đảo lộn vị trí các từ trong câu Nếu đúng theo ngữ pháp, loại câu đơn duy nhất có động từ đứng ở đầu câu là câu hỏi (dĩ nhiên chúng ta đang bỏ qua mệnh lệnh thức – Imperativ). Thế nhưng, đừng ngạc nhiên nếu bạn nghe thấy một đoạn hội thoại như sau: „Machst du das?“ – „Ja, mache ich“. Đây là một trường hợp đặc biệt của việc rút gọn thành phần câu, câu đầy đủ sẽ là „Ja, das mache ich“. Hay như nếu các bạn hỏi tôi „Kann man in Deutschland so reden?“ thì câu trả lời sẽ là „Kann man machen“ = „Das kann man so machen“ 5. Không giữ quy chuẩn ngữ pháp Nếu các bạn nghĩ người Đức thật là siêu khi có thể nói 1 hơi dài 1 đống thông tin xong tít cuối câu mới cho động từ (thành phần quan trọng nhất của câu) vào, thì các bạn nhầm rồi. Tôi không nói là tất cả, nhưng số lượng người Đức nói „dass + Hauptsatz“ hay „weil + Hauptsatz“ không hề ít đâu nhé (ở một bài viết khác chúng ta sẽ làm rõ hơn về vấn đề này). Thật ra, đây cũng là điều rất dễ hiểu, bởi vì đầu óc chúng ta sẽ luôn luôn suy nghĩ theo kiểu „Chủ ngữ + Vị ngữ“. Đấy là cách đơn giản nhất để nói 1 câu, nên việc dùng Nebensatz trong văn nói với người Đức thật ra cũng khó khăn không khác gì chúng ta, có chăng là họ đã được rèn luyện từ bé nên họ quen rồi thôi. Đây là một trong những điều khiến người nước ngoài chúng ta nói tiếng Đức chậm lại. Chúng ta quá quan tâm đúng-sai ngay ở khâu bắt đầu mà quên mất rằng, trong một cuộc hội thoại, phản ứng của bạn đủ nhanh nhạy mới là yếu tố tiên quyết giữ một người tiếp tục muốn nói chuyện với bạn. Rõ ràng là không ai muốn nói chuyện với một người nói được một chút nội dung nhưng cứ à với ờ đúng không? Và khi bạn giữ được người ta tiếp tục câu chuyện, dần dần bạn sẽ xây dựng được sự tự tin. Tuy nhiên, nếu bạn nghĩ rằng chỉ cần tự tin là đủ thì tôi khuyên bạn nên suy nghĩ lại. Khi sự tự tin đã có, hãy cố gắng tập nói „dass + Nebensatz“ hay „weil + Nebensatz“. Đừng vì người Đức chấp nhận bạn nói rất nhiều cái sai nhưng họ vẫn hiểu mà ngừng hoàn thiện bản thân. Về cơ bản, như tôi đã nói, ngôn ngữ nói chuyện thường ngày nó khác hoàn toàn với trong văn bản hay trong những cuộc nói chuyện nghiêm túc (formell). Vì vậy, việc nói chuẩn và dùng những từ ngữ phù hợp với bối cảnh là rất quan trọng, đặc biệt với các bạn sinh viên. Rõ ràng, bạn không muốn đến gặp giáo sư và nói „Ey na, was geht ab?“ đúng không? Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệu Bích
Đây là một vấn đề mình đã đề cập rất nhiều với các học sinh của mình, đặc biệt những em mới tham gia học.Mình luôn luôn nói rằng, giáo viên dù có là bất cứ ai, Profile khủng cỡ nào thì vẫn chỉ là con người, và bọn mình không thể nào đảm bảo cho các bạn học mấy tháng sẽ xong trình độ này, trình độ kia. Yếu tố quyết định của việc bạn có học tốt hay học nhanh được hay không, phụ thuộc chủ yếu vào bản thân bạn. Còn dưới tư cách giáo viên, chúng mình sẽ chỉ hướng dẫn bạn, trả lời những câu hỏi mà bạn chưa biết hay đưa ra lời khuyên cho bạn mà thôi. Vậy làm thế nào để tự học? Chúng ta hãy cùng tham khảo những quan điểm dưới đây: 1. Từ bỏ tiếp thu kiến thức thụ động Việc giảng dạy không chỉ riêng ngôn ngữ, mà cả những môn học khác ở Việt Nam nói chung đều theo hướng „Tầm sư học đạo“, có nghĩa là muốn học tốt thì phải tìm thầy/cô hay. Quan điểm này không sai, nhưng có lẽ các bạn quên rằng ở thời đại ngày nay, tất cả những thứ xung quanh ta đều có thể trở thành thầy của ta. Chúng ta có người chị vĩ đại Google, có sách báo, có Youtube, có Netflix, có mạng xã hội, có tất cả mọi thứ. Đừng chờ đến khi giáo viên giảng về một vấn đề rồi tiếp thu nó một cách thụ động qua giáo viên, đừng chờ đến khi giáo viên giao bài cho bạn rồi mới bắt đầu làm, đừng chờ giáo viên phải kiểm tra bài cũ để xem các bạn có hiểu bài hay không. Hãy tìm hiểu trước, hãy đọc trước, hãy có kiến giải cho riêng mình, và hãy đặt thật nhiều câu hỏi. Mình hay nói với các bạn học sinh, tôi sẽ trả lời đủ 1000 câu hỏi của các bạn, nhưng nếu câu hỏi là: „Em không biết gì chỗ này anh nói từ đầu được không?“, thì rất tiếc là mình sẽ không trả lời câu này. Việc học là của các bạn và cho tương lai các bạn, làm sao mà các bạn lại để mình có trách nhiệm với nó hơn cả các bạn được, phải không? 2. Hãy hiểu vấn đề, chứ đừng chỉ biết Ở đây có một câu hỏi phổ biến là: „Vậy như thế nào là hiểu vấn đề?“. Ở đây mỗi người mỗi ý, nhưng theo quan điểm cá nhân của mình, hiểu được một vấn đề, có nghĩa là phải GIẢI THÍCH ĐƯỢC CHO NGƯỜI KHÁC HIỂU VẤN ĐỀ ĐÓ BẰNG NGÔN NGỮ CỦA BẠN. Như các bạn có thể thấy ở biểu đồ hình kim tự tháp phía trên, dạy người khác về một vấn đề là cách tốt nhất để bạn học hiểu vấn đề đó, trái lại với việc chỉ học từ trên lớp. Nếu bạn nào đã học với mình, chắc không còn lạ gì cái câu hỏi: „Bây giờ chúng ta có 4 cách, 3 trong số đó có vai trò đặc biệt quan trọng là Nominativ, Akkusativ và Dativ. Có ai biết tại sao chúng ta lại cần có 3 cách đó hay không?“. Với những câu hỏi kiểu như vậy, hoặc là bạn hiểu vấn đề, còn không thì bạn chỉ có thể nói vẹt lại là tiếng Đức có mấy cách và mỗi cách thì Artikel viết như nào mà thôi! Vì vậy, lời khuyên cho các bạn là hãy cố gắng giải thích ra cho bạn học và cho cả giáo viên nữa, rằng các bạn hiểu những thứ các bạn mới được học như thế nào. Điều này đồng nghĩa với việc rèn luyện thêm kĩ năng thuyết trình nữa đấy nhé! Và các bạn biết kĩ năng thuyết trình dùng cho phần thi nào rồi đấy xD! 3. Hãy bắt tay vào làm, chứ đừng chỉ nghĩ Phương pháp thì mình luôn sẵn sàng đưa cho các bạn, tài liệu và kinh nghiệm cũng thế, nhưng có thực sự làm hay không, thì mình chịu và chỉ có các bạn mới biết được. Nhiều bạn rất hay có nghi ngờ rằng, liệu phương pháp này đúng không, liệu học thế có ăn thua gì không? Cái tình huống này thật ra khá giống mấy anh choai choai đang không biết có nên tỏ tình với crush hay không, vì sắp ra trường. Thế để mình nói luôn với các bạn quan điểm của mình: Thà bị từ chối hay là yêu xong thấy không hợp rồi chia tay, còn dễ chịu hơn là không bao giờ dám nói ra xong rồi lại tiếc. Việc học cũng vậy, không có phương pháp nào là tối ưu cho tất cả mọi người, nhưng các bạn có quyền thử nghiệm và thay đổi nếu cần cơ mà. Ai bắt các bạn phải học như thế mãi đâu? Nhưng ít nhất phải trải nghiệm và thật sự làm trong một khoảng thời gian đủ dài thì bạn mới đủ thông tin để đánh giá một cách làm chứ, phải vậy không? Thế nên, nếu thấy cách làm gì đó hay và nghĩ rằng có thể nó sẽ mang lại gì đó, hãy làm nó đi đã. Có một câu mình thấy rất hay liên quan đến công việc: „Nếu các bạn cảm thấy không thích công việc mình đang làm, hãy từ bỏ nó, hoặc là yên lặng và làm tiếp!“ 4. Hãy viết thật nhiều Đúng vậy, như mình đã nói, ngôn ngữ đối với mình là công cụ giao tiếp. Mà đã là công cụ, nếu không được đưa ra sử dụng thường xuyên, lẽ đương nhiên là công cụ đó sẽ nhanh chóng cùn mòn và kém hiệu quả trong công việc. Việc viết ra bằng tiếng Đức giúp chúng ta rèn luyện cùng lúc một loạt những thứ sau đây: sức sáng tạo, tư duy logic, khả năng chọn lọc, kĩ năng trình bày, tính cẩn thận và đương nhiên là cả ngữ pháp tiếng Đức nữa. Tương tự như một bài viết bàn về kĩ năng nói, mình luôn muốn mọi người hãy là chính mình khi viết. Cụ thể là, hãy viết như cách bạn suy nghĩ, và hãy tập luyện để những gì bạn viết ra có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trước khi để ý đến việc dùng từ hay, từ khó hay các loại Redemittel. Mình không phủ nhận việc học nhiều từ hay và các loại Redemittel giống như người Đức sẽ làm bài viết của các bạn hay và “deutsch” hơn rất nhiều. Tuy nhiên, xin đừng học thuộc lòng 1 đống Redemittel cho sẵn và cố gắng hình thành nội dung bài viết sao cho nhét được thật nhiều Redemittel vào để lấy điểm cao. Hãy hình thành nội dung bài viết một cách tự nhiên và dùng Redemittel vào những vị trí mà bạn cho là phù hợp, hoặc nếu chưa biết, hãy cứ viết theo cách của bạn. Có rất nhiều sự hỗ trợ từ khắp nơi có thể giúp các bạn chỉnh sửa lại cách viết cho tốt hơn (Deutsch mit Kobe chả hạn xD). Quan trọng nhất, mình nhắc lại, là các bạn phải viết ra, càng nhiều càng tốt. Đừng sung sướng khi nhìn thấy bài viết mẫu của người khác nữa. Các bạn có thể học thuộc 40-50 bài viết mẫu để vượt qua 1 kì thi, nhưng các bạn không thể nào học thuộc cả cái ngôn ngữ này cũng như những tình huống trong cuộc sống để mà đem ra dùng khi sang Đức. Lúc đó, mình tin các bạn sẽ hối hận vì đã không dùng thời gian, sức lực và cả tiền bạc một cách hợp lý hơn đấy! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Các ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả những động tác và làm rõ ý của người truyền đạt. Trái lại, ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả những khái niệm và mang đến cái nhìn toàn cảnh cho sự việc được nhắc tới. Một dân tộc càng tiến bộ sẽ sở hữu càng nhiều khái niệm trừu tượng và ngôn ngữ của dân tộc đó cũng trở nên trừu tượng hơn. Lý do là vì một khái niệm trừu tượng bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một động từ. Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau đây. Giữa hai câu: “Tôi đi sang Đức” và “Việc đi sang Đức của tôi” có sự khác biệt rõ rệt. Câu đầu tiên tuy rất rõ ràng và dễ hiểu nhưng chỉ diễn tả hành động cụ thể là “đi sang Đức”. Câu thứ hai trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà còn là tất cả các sự kiện dính liền với hành động trên, chẳng hạn “đi với ai”, “đi như thế nào”, “bao giờ đi”, vv và vv. Tiếng Việt của chúng ta đương nhiên cũng có lối hành văn sử dụng danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng hơn. Vì vậy, chắc ai trong số chúng ta cũng đều đồng ý rằng câu “Tôi đi sang Đức” nghe vẫn cảm thấy quen tai hơn. Thế nhưng, là một đất nước sở hữu rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học với những phát minh, lý thuyết đồ sộ, việc ghi chép và lưu trữ nguồn tư liệu khổng lồ đó biến tiếng Đức dần dần trở thành một ngôn ngữ lấy danh từ làm chủ đạo. Bằng cách này, những tư tưởng được đề cập vừa duy trì được tính bao quát và vững chắc, vừa đảm bảo cắt giảm số lượng câu từ để việc lưu trữ đạt hiệu quả cao nhất. Các câu văn dùng nhiều danh từ mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn, rất phù hợp để diễn tả những ý kiến tổng quát và khơi gợi trí tưởng tượng từ người đọc, thay vì những ý kiến cụ thể giới hạn cho từng trường hợp. Đến đây chắc chúng ta cũng đã rõ, tại sao một người Việt Nam lại cảm thấy khó khăn khi học tiếng Đức hơn một người đến từ Anh. Vấn đề không chỉ đơn giản nằm ở mức độ khó hay dễ của tiếng Đức, vấn đề có lẽ xuất hiện ngay từ việc chúng ta đến từ một đất nước với một hệ ngôn ngữ trái ngược. Tuy vậy, ngay bản thân tiếng Đức cũng luôn tồn tại song song hai phong cách diễn đạt một vấn đề như đã nhắc đến ở trên, đó chính là Verbalstil và Nominalstil. Nhìn vào gốc của hai từ, chúng ta dễ dàng nhận ra “Verb” (động từ) và “Nomen” (danh từ). Khi nói chuyện bình thường trong cuộc sống hàng ngày, rõ ràng chúng ta sử dụng chủ yếu là động từ và qua đó, thể hiện một cách tường minh và sống động điều mà chúng ta mong muốn. Vì lý do này, Verbalstil được sử dụng nhiều hơn trong văn nói và còn có các tên gọi quen thuộc khác như “Alltagssprache” hay “Umgangssprache”. Ngược lại, Nominalstil được sử dụng chủ yếu trong các văn bản mang tính học thuật, hàn lâm, chính trị hay hành chính. Các văn bản này sử dụng rất nhiều các cấu trúc gồm danh từ đi kèm giới từ và do đó, đòi hỏi nền tảng ngữ pháp cao hơn nhiều so với việc sử dụng động từ. Do vậy, dù với tư cách là một người Việt học tiếng Đức hay một người yếu kĩ năng viết (một kĩ năng khó với rất nhiều người), chúng ta cần thành thục cách để chuyển đổi từ Verbalstil sang Nominalstil, hay như trong tiếng Đức chúng ta gọi là “Nominalisierung”. Vậy thì có những phương án nào cho “Nominalisierung” và làm thế nào để có thể “nominalisieren” thành công? Vì giới hạn cũng như định hướng bài viết, mình chỉ đề cập đến “Nominalisierung” từ động từ và tạm bỏ qua các loại từ khác. Sau đây là các cách để biến đổi một động từ thành một danh từ trong tiếng Đức: Thay đổi trạng thái của động từ bằng thành phần bổ sung (Explizite Derivation) Xuất phát từ một động từ, chúng ta có thể tạo ra một danh từ mới thông qua việc thêm vào các thành phần bổ sung (Affigierung), ví dụ như tiền tố (Präfix), hậu tố (Suffix) hoặc kết hợp cả 2 thành tố trên (Zirkumfix). Trong trường hợp này, bản chất của động từ ban đầu không hề bị thay đổi và giống của danh từ nhận được thông qua quá trình này sẽ được quyết định hầu hết thông qua Affigierung. Ví dụ, từ các động từ “bilden”, “ergeben” và “wachsen“ chúng ta có thể cấu tạo ra danh từ thông qua việc thêm vào các hậu tố mang xu hướng danh từ hóa (nominale Suffixe): bilden + ung -> die Bildung ergeben + nis -> das Ergebnis wachsen + tum -> das Wachstum Không thay đổi trạng thái của động từ, không sử dụng thành phần bổ sung (Konversion) Trái ngược với việc thay đổi trạng thái của động từ ban đầu (Wortartwechsel), chúng ta chỉ đơn giản chuyển thể một động từ thành một danh từ thông qua việc thêm vào quán từ (Artikel). Ở đây, ta lại có 2 trường hợp riêng biệt gồm: Cấu tạo danh từ giữ nguyên động từ (syntaktische Konversion) và cấu tạo danh từ giữ một phần động từ (morphologische Konversion). Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy tham khảo các ví dụ sau đây: lernen -> das Lernen (syntaktische Konversion) treffen -> das Treffen (syntaktische Konversion) beginnen -> der Beginn (morphologische Konversion) kaufen -> der Kauf (morphologische Konversion) Thay đổi trạng thái của động từ không sử dụng thành phần bổ sung (implizite Derivation) Lấy một phần từ cả 2 phương pháp trên, cách thứ 3 này sẽ vừa thay đổi trạng thái động từ ban đầu (Wortartwechsel) và vừa không sử dụng bất kì thành phần bổ sung (Affigierung) nào. Để phân biệt với trường hợp thứ 2 chúng ta sử dụng khái niệm „Sự thay đổi bản chất của từ“ (Stammvokalwechsel). Để hiểu rõ hơn, hãy cùng tham khảo các ví dụ sau đây: finden -> der Fund gehen -> der Gang genießen -> der Genuss schreiten -> der Schritt Một trong những ưu điểm dễ nhận thấy nhất của việc sử dụng danh từ đó là đôi khi chúng ta có thể bỏ bớt các câu phụ và diễn đạt được ý tương tự một cách gọn gàng hơn. Tuy vậy, ngay cả trong các văn bản mang tính hàn lâm, chúng ta cũng không nên sử dụng „Nominalisierung“ một cách thái quá để tránh việc câu chúng ta viết ra rơi vào tình trạng phức tạp quá mức, gây khó khăn cho việc đọc hiểu. Nói tóm lại, danh từ hóa là một công cụ đa dụng, vừa giúp chúng ta đến gần hơn với văn phong tiếng Đức, vừa giúp chúng ta rèn luyện kĩ năng viết, lại vừa tạo cơ hội để chúng ta xử lý những hiện tượng ngữ pháp phức tạp hơn. Nhưng xét cho cùng, dù là động từ hay danh từ, hãy luôn nhớ rằng, ngôn ngữ chỉ là công cụ giao tiếp, chứ không phải phương tiện để làm màu. Một khi nội dung được truyền tải hợp lý và người tiếp nhận thông tin cảm thấy dễ hiểu, lúc đó mục tiêu của việc học ngôn ngữ đã đạt được, dù là với Verbalstil hay là Nominalstil! Tác giả: Kobe Minh hoạ: Diệp Vũ Bài viết có tham khảo nội dung từ bài viết của SpraKuKo với tiêu đề “Nominalisierung von Verben: Explizite Derivation und Konversion“. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự góp ý của Hoàng Trinh!