Đối với mỗi chúng ta, việc học Đại học sẽ bắt đầu một giai đoạn hoàn toàn mới của cuộc sống. Sau khi đã có được sự lựa chọn về ngành học và nơi học, câu hỏi đặt ra sẽ là về việc nên ở đâu và hơn cả, nên sống như thế nào. Chắc chắn là chúng ta có nhiều hơn một cách để trả lời cho câu hỏi này. Kết quả của cuộc khảo sát lần thứ 20 của Hiệp hội sinh viên Đức cho thấy, vào học kỳ mùa hè năm 2012, có đến 37% sinh viên sống một mình hoặc sống cùng bạn tại nhà riêng. Tiếp theo là hình thức thuê nhà chung (29%) và lựa chọn sống tại nhà (23%). Chỉ có 1/10 sinh viên sống trong ký túc xá vào năm 2012. Vì vậy, có rất nhiều cách khác nhau để trả lời cho câu hỏi về việc nên ở đâu. Tuy nhiên, đương nhiên là tất cả mọi thứ đều có những ưu và nhược điểm của nó. Căn hộ riêng – tự do làm những gì mình muốn? Ngay cả khi thường được hỗ trợ tài chính từ bố mẹ, không gian riêng đầu tiên là một thứ gì đó hết sức đặc biệt. Bạn có cho mình một nơi để về và bỏ lại thế giới bên ngoài cánh cửa bất cứ khi nào bạn muốn. Sống một mình đồng nghĩa với việc tự do hơn, nhưng cũng cần thật nhiều trách nhiệm, và xét cho cùng, bạn sẽ phải tự quản lý các lịch hẹn của mình với chủ nhà hay với thợ thủ công, tự xử lý đường truyền Internet và phải tuân thủ các quy tắc trong nhà. Đối với việc học thì một căn hộ riêng đem lại vô vàn lợi ích: sẽ không có những bữa tiệc “từ trên trời rơi xuống” trong giai đoạn ôn thi và cũng không có những âm thanh ồn ào. Và khi bạn cảm thấy quá ngột ngạt, bạn có thể rủ bạn đến chơi nhà mà không cần quan tâm đến những người bạn cùng phòng. Ưu điểm: Nhiều không gian riêng tư. Bạn có thể khỏa thân đi qua đi lại giữa các phòng hay để bát đĩa ở bất cứ nơi đâu bạn muốn Không phải bàn bạc với bất cứ ai về đồ đạc trong phòng hay về lịch dọn dẹp nhà cửa Phát triển bản thân: bạn sẽ tự động trở nên tự lập hơn Nhược điểm: Nguy cơ cô đơn “Hại ví”: Sống trong căn hộ riêng thường là hình thức cư trú đắt đỏ nhất Sống cùng nhiều người – liệu bạn có thực sự phù hợp? Sống chung sẽ thật lý tưởng khi bạn được ấm cúng quây quần bên nhau, cùng nhau nấu ăn, luôn luôn lắng nghe nhau và có phòng riêng để hưởng thụ sự yên tĩnh. Sống chung là cách tốt nhất và dễ dàng nhất để nhanh chóng kết bạn với mọi người tại một vùng đất mới. Bạn cùng phòng sẽ biết món ăn nào ở căng tin nên tránh, giáo sư nào nghiêm khắc – hoặc nếu không chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm. Nhưng không phải ai cũng thật sự phù hợp với việc sống chung, đặc biệt khi sống với rất nhiều người. Sự khác biệt về cách sống hay vấn đề vệ sinh cũng thường xuyên xuất hiện, và vì thế cần phải có một sự thấu hiểu nhất định dành cho nhau. Đối với những bạn vẫn chưa chắc chắn: hãy tự hỏi bản thân rằng, bạn có sẵn sàng nhường cho bạn cùng phòng sử dụng bồn tắm, nhường chỗ trong tủ lạnh, hoặc thậm chí chấp nhận thiệt hơn từ đầu. Và từ những giây phút đầu, 2 người bạn cùng phòng có thể khiến bạn thật sự mệt mỏi. Ưu điểm: Trong trường hợp tốt nhất, sống chung là sự thay thế hoàn hảo cho việc sống cùng gia đình Tiết kiệm chi phí hơn, không chỉ ở tiền phòng mà còn ở phụ phí thuê nhà hay tiền Internet Nhược điểm: Việc ở cùng người khác có thể là một cơn ác mộng. Vì vậy, tốt hơn là hãy chuyển vào ở chung với những người mà bạn đã biết qua về họ Luôn luôn phải thỏa hiệp cũng như chấp nhận những trận cãi vã bởi vì một kế hoạch dọn dẹp nhà cửa hoàn hảo chỉ có trong tưởng tượng mà thôi Ở nhà với bố mẹ – Hotel Mama? Là một sinh viên thì điều thoải mái nhất là được ở cùng với bố mẹ. Mua sắm và giặt giũ cho bản thân thường được kết hợp với công việc hàng ngày của các bà mẹ. Bạn cũng được ở gần những người bạn thân quen từ nhỏ, trừ khi họ chuyển đi chỗ khác để học Đại học. Bạn cũng không phải chịu trách nhiệm khi mà hệ thống thoát nước bị tắc hay hệ thống sưởi bị hỏng. Đôi khi, việc ở nhà cũng rất bất lợi nếu trường Đại học không ở gần đó. Ngoài ra, ở nhà thường rất dễ bị xao nhãng bởi vì sẽ luôn luôn có người muốn nhờ bạn trong lúc học. Ưu điểm: Ở gần gia đình và bạn bè Môi trường quen thuộc, cần ít trách nhiệm với việc nhà Giải pháp tiết kiệm chi phí, nếu cha mẹ không tính tiền thuê nhà Nhược điểm: Có thể cách xa trường Đại học -> việc đi lại trở nên mệt mỏi và tốn kém Việc ở xa sẽ khiến bạn không thể tham gia tất cả các buổi tụ tập hay tiệc tùng -> khó khăn hơn trong việc làm quen với bạn cùng trường Ít tự lập hơn là sống chung hay ở căn hộ riêng Kí túc xá – nơi dành cho những sinh viên có cùng chí hướng ? Ở Đức,kí túc xá thường ở gần trường Đại học. Tại đây, bạn có thể tìm thấy nhiều loại phòng với kích thước và giá thuê khác nhau: Bạn có thể ở phòng đơn và dùng chung phòng tắm và nhà bếp với tối đa 12 người khác, hoặc bạn có thể ở phòng 1 người hay ở 1 căn hộ riêng. Ở kí túc xá cũng là cách tiết kiệm chi phí nhất, chỉ sau “Hotel Mama”. Ở kí túc xá, bạn sẽ gặp được những người cùng chí hướng, dù ở trong phòng giặt quần áo hay bên cạnh thùng thư. Thường thì sẽ có 1 phòng sinh hoạt chung và đây thường xuyên là địa điểm tổ chức các bữa tiệc. Tóm lại: bạn sẽ không bao giờ nhàm chán khi ở kí túc xá. Bạn có thể thấy vui, nhưng đôi khi cũng thấy phiền phức khi bạn cần yên tĩnh để học bài. Nhưng có một điều chắc chắn: bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn khi ở kí túc xá. Ưu điểm: Quy trình đăng kí đơn giản – hầu hết theo hình thức online mà không cần đến tận nơi Nhiều mối quan hệ xã hội Nhược điểm: Danh sách đợi phòng thường rất dài, số lượng phòng trở nên khan hiếm do số lượng sinh viên ngày càng tăng Không thể cho thuê lại nếu muốn học trao đổi ở nước ngoài một thời gian hay đi thực tập Đại đa số các kí túc xá sẽ chỉ cho phép mỗi sinh viên thuê phòng trong một số lượng học kỳ nhất định TỔNG KẾT Về cơ bản, việc chuyển ra ngoài để học Đại học là một điều tốt. Việc bớt phụ thuộc một chút vào bố mẹ và những trải nghiệm về việc tự mình sắp xếp việc nhà chắc chắn không gây hại cho ai. Nếu ai đang gặp khó khăn về tài chính, hãy cân nhắc đến việc thuê chung 1 căn hộ hoặc ở kí túc xá. Cũng có khả năng sẽ có một người bạn, dù là nam hay nữ, muốn ở chung và các bạn có thể rủ họ đến ở cùng. Chúng ta không nhất thiết lúc nào cũng phải ở cùng với toàn người lạ. Việc giải quyết tốt các xung đột cũng rất quan trọng trong quá trình học tập và làm việc. Đặc biệt quan trọng: hãy chuẩn bị thông tin sớm. Điều đó là rất cần thiết đối với tình hình hiện nay của phòng kí túc xá. Tại nhiều trường Đại học, bạn có thể thu thập thông tin tại danh sách các căn hộ hay ở bảng thông báo của trường. Sau tất cả thì bạn vẫn có thể nhanh chóng tìm ra bạn cùng phòng trên những nền tảng tìm kiếm bạn ở chung online như WG-Gesucht. Chúc các bạn may mắn tìm được một căn hộ, thuê được phòng chung hay tìm được phòng kí túc xá! Hãy để lại ở phần bình luận ý kiến của các bạn (hoặc những trải nghiệm thú vị của các bạn khi tìm chỗ ở) nhé! Chuyển dịch: Huyền Yến Minh họa: Diệp Vũ Bài viết gốc với tiêu đề “Wohnen während des Studiums: allein, bei den Eltern, WG oder ab – ins Wohnheim?” được đăng trên https://blog.spotted.de/wohnen-waehrend-des-studiums/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Mit dem Studium beginnt für die meisten von uns ein ganz neuer Lebensabschnitt, der nach der Wahl des Studiengangs und Studienorts auch zu der Frage führt, wo und vor allem wie man denn seine Zelte aufschlagen soll. Dabei gibt es mehr als nur eine Möglichkeit. Die 20. Sozialerhebenung des Deutschen Studentenwerks ergab, dass im Sommersemester 2012 die meisten Studierenden alleine oder gemeinsam mit ihrem(er) Partner(in) in einer eigenen Wohnung lebten (37%). Direkt darauf folgen die Wohngemeinschaften (29%) und die Daheimschläfer (23%). Nur jeder Zehnte wohnte 2012 in einem Wohnheim. Daraus folgt, dass die Frage des Wohnortes ganz unterschiedlich beantwortet werden kann, doch wie so oft im Leben hat alles seine Vor- und Nachteile. Die eigene (Miet-)Wohnung- Freiraum um zu tun und zu lassen, was man will? Die ersten eigenen, wenn auch meist mit Hilfe der Eltern finanzierten, Wände sind etwas ganz Besonderes. Man hat einen Ort für sich, um sich zurückzuziehen und die Welt hinter der Wohnungstür zu lassen, wann immer man möchte. Allein zu wohnen bedeutet mehr Freiheit, aber auch mehr Verantwortung, schließlich müssen nun Termine mit Hausmeistern und Handwerkern, der Internetanschluss und das Einhalten der Hausordnung selbst gemanaged werden. Zum Lernen kann die eigene Wohnung sehr vorteilhaft sein: Keine Spontanpartys während der Klausurenphase und keine laute Musik. Wem doch mal die Decke auf den Kopf fällt, kann jederzeit Kommilitonen einladen, ohne Rücksicht auf Mitbewohner nehmen zu müssen. Pro: Viel Privatsphäre, um jederzeit nackig durch die Bude zulaufen und das Geschirr stehen zu lassen, wie es einem passt Keine Kompromisse bei der Einrichtung oder dem Putzplan Persönliche Entwicklung: man wird automatisch selbstständiger Kontra: Gefahr der Einsamkeit Schlecht fürs Konto: die eigene Wohnung ist meist die teuerste Wohnform Die Wohngemeinschaft – bin ich WG-tauglich? Das Idealbild einer WG ist die Kombination aus gemütlichem Zusammensitzen, gemeinsamem Kochen, einem immer offenen Ohr und der eigenen Zimmertür, die jeder auch mal schließen kann, um seine Ruhe zu haben. Eine WG ist die beste und einfachste Möglichkeit, an einem neuen Studienort schnell Leute kennenzulernen und Anschluss zu finden. Die Mitbewohner wissen vielleicht schon, welches Essen man in der Mensa besser meiden sollte oder welcher Prof besonders streng ist – und falls nicht, kann man die neuen Erfahrungen miteinander teilen. Aber eine WG, vor allem je mehr Leute zusammenwohnen, ist nicht immer Jedermanns Sache. Es prallen oftmals komplett unterschiedliche Vorstellungen von Wohnen und Hygiene zusammen, denen mit einer gewissen Grundtoleranz begegnet werden muss. Für diejenigen unter euch, die noch unsicher sind: es hilft sich zu fragen, ob man Abstriche machen kann in Sachen Badnutzung und Platz im Kühlschrank und eventuell klein anzufangen. Zwei Mitbewohner können einen nämlich für den Anfang auch ganz schön auf Trab halten. Pro: Im besten Fall ist die WG eine Art Familienersatz Günstiger, nicht nur bezogen auf den Wohnraum, sondern auch auf Nebenkosten, Internet etc. Kontra: Mitbewohner können zum Albtraum werden, deshalb evtl. mit Leuten zusammenziehen, die man schon etwas kennt. Kompromisse müssen eingegangen werden und ein kleiner Streit ab und zu sollte verkraftet werden können, denn der perfekte Putzplan ist eine Illusion. Zuhause bleiben- Hotel Mama? Am bequemsten kann man es als Student im Elternhaus haben. Einkaufen und Wäsche machen ist dann doch meistens in die Alltagsroutine der Mutter integriert und der alte Freundeskreis ist, sofern nicht zum Studium weggezogen, auch noch in der Nähe. Verstopfte Abflüsse und eine streikende Heizung fallen ebenfalls nicht in den eigenen Zuständigkeitsbereich. Es kann aber auch nachteilig sein zuhause zu wohnen, sollte die Uni nicht direkt um die Ecke liegen. Außerdem ist daheim meist relativ viel Ablenkung geboten. Ständig möchte jemand etwas von einem, wenn man doch eigentlich gerade am Lernen ist. Pro: Enger Kontakt zu Familie und Freunden Vertraute Umgebung, wenig Verantwortung für den Haushalt etc. Günstigste Lösung, wenn die Eltern keine Miete verlangen Kontra: Evtl. weite Entfernung zur Uni -> Pendeln ist nervenaufreibend und teuer Wohnt man weiter weg, fährt man auch nicht zu jedem Stammtisch oder jeder Party -> das kann es erschweren, Anschluss an andere Studenten zu kriegen Man wird weniger selbstständig, als in einer WG oder einer eigenen Wohnung. Das Studentenwohnheim- gleich und gleich gesellt sich gern? Studentenwohnheime gibt es in Deutschland im Prinzip in der Nähe jeder Uni oder Hochschule. Dort gibt es Zimmer in vielen Größen- und Preisklassen: Man kann ein Einzelzimmer haben und sich aber Bad und Küche mit bis zu 12 Anderen teilen, aber auch wie in kleinen 2-er WGs oder in einer Einzelwohnung hausen. Die Preise sind dabei nach dem Hotel Mama am niedrigsten. Im Wohnheim trifft man überall Gleichgesinnte, egal ob im Waschraum oder am Briefkasten. Oft hat es einen Aufenthaltsraum und es finden regelmäßige Partys statt. Kurz um: im Wohnheim ist immer was los. Das kann spaßig sein, aber auch stören, sollte man gern seine Ruhe zum Lernen haben wollen. Vereinsamen wird man im Wohnheim definitiv nicht. Pro: Einfaches Bewerbungsverfahren- meist online, kein Vorortbesuch notwendig Viele soziale Kontakte Kontra: Häufig lange Wartelisten, die Plätze sind bei der wachsenden Zahl an Studenten knapp Keine Untervermietung bei Auslandssemester oder Praktikum möglich Die meisten Wohnheime sind beschränkt auf eine bestimmte Semesterzahl pro Person Fazit Grundsätzlich ist Ausziehen zum Studium eine gute Sache. Ein bisschen Unabhängigkeit von den Eltern und ein paar neue Erfahrungen in Sachen selbständiges Schmeißen eines Haushaltes schaden schließlich nicht. Wer eher knapp bei Kasse ist, sollte eine WG oder das Wohnheim in Erwägung ziehen. Vielleicht findet sich auch eine Freundin oder ein Kumpel, um zusammen zuziehen. Es müssen ja nicht immer gleich 3 völlig Fremde sein. Gutes Konfliktmanagement zahlt sich auch im Studium oder Arbeitsalltag aus. Besonders wichtig: Informiert euch frühzeitig! Gerade bei den Wohnheimplätzen ist das notwendig. An vielen Unis und Hochschulen gibt es Wohnungslisten oder ein schwarzes Brett, um vor Ort Infos zu sammeln. Ansonsten wird man auch auf Portalen wie WG-Gesucht schnell fündig. Also: Viel Glück bei der Wohnungs-, WG- oder Wohnheimplatz-Suche! Hinterlasst uns doch eure Meinung (oder eure kuriosesten WG-Erlebnisse) als Kommentar.
Uncategorized @vi
HÖREN – TEIL 2 Đây là lần đầu tiên tôi viết một bài hướng dẫn về việc làm bài thi nghe. Tôi không gọi là bài hướng dẫn về kĩ năng nghe, bởi vì cách tôi chuẩn bị giới thiệu với các bạn đây nó không liên quan đến việc nghe cho lắm, nó liên quan đến tư duy logic nhiều hơn. Tôi không đảm bảo cách làm này là làm đâu trúng đấy, và cũng không khuyến khích tất cả mọi người làm theo, nên bạn nào có ý định phản đối thì mong các bạn vui lòng chuyển kênh khác xem tiếp luôn^^ Tôi chọn Teil 2 của đề thi B1 vì tôi nghĩ với nhiều bạn, chọn 1 trong 3 đáp án mà chỉ được nghe một lần là một việc khá là khó nhằn. Phương pháp mà tôi sử dụng ở đây về cơ bản nó cũng giống với cách tôi khuyên các bạn đọc ở bài trước, có điều là ở đây ta chỉ có mỗi câu hỏi thôi, nên đương nhiên là ta phải tập trung 100% sức lực vào việc phân tích những câu hỏi đó. Việc phân tích câu hỏi mang một ý nghĩa rất lớn, khi ta sẽ có được sự hình dung cho những gì mình sắp nghe, và việc giới hạn tìm kiếm thông tin mình cần. Tuy vậy, với bài thi nghe này, tôi thậm chí khuyên các bạn làm một việc táo bạo hơn, đó là trực tiếp phán đoán dựa vào câu hỏi và liên hệ với thực tế để loại đi những đáp án không thể nào đúng, đặt dấu hỏi cho những đáp án rất khó có khả năng xảy ra, hay thậm chí chỉ trực tiếp ra đáp án mình cho là đúng. Cụ thể mời các bạn tham khảo quá trình tôi làm thử một bài tập mẫu trích từ Übungssatz für Erwachsene của Goethe Institut sau đây: Đánh giá thông tin cho sẵn: Người ta sẽ cho sẵn bạn một câu ngắn gọn để tóm tắt nội dung mà bạn sắp sửa nghe. Please, đừng ai bỏ qua cái dòng này giúp mình!!! Bởi vì nó sẽ giúp bạn lọc được rất nhiều thứ không cần thiết đấy. Cụ thể cho bài thi này: Bạn sẽ tham gia vào chương trình thể thao kéo dài một tuần và trong ngày khai mạc bạn nhận được những thông tin sau đây… Như vậy, chưa nghe tôi cũng có thể tưởng tượng ra là sẽ có một người hướng dẫn, đang đứng trước một nhóm người tham gia để phổ biến những thứ mọi người cần biết khi tham gia chương trình tập luyện thể thao này! Đánh giá dữ kiện câu hỏi: Như các bạn có thể thấy, những câu hỏi thường là những câu khá dễ và ngắn, nên tôi yêu cầu mọi người phải đọc hiểu 100% những câu hỏi này đã, rồi mới tính tiếp. Sau đó, tôi tiến hành bước đầu tiên là loại bỏ những thông tin tôi cho là không thể nào đúng. Trong hình, tôi loại bỏ ý 11b và 14a ngay từ đầu. Lý do cho câu 11b là tôi không nghĩ tham gia một khóa học ngắn hạn (1 tuần) liên quan thể thao mà người ta lại bắt bạn tự nấu ăn ngày 2 lần bao giờ, bảo bạn tự đi ăn ngoài thì may ra tôi còn tin. Lý do cho câu 14a là vì nếu ý người ta là buổi tối chỉ được tập luyện 1 giờ (cái này nghe cũng rất vô lý rồi), thì câu cho sẵn phải dùng từ „dürfen“ chứ không phải là „können“. Đưa ra phán đoán cá nhân: Đây là một phần khá là phức tạp nên tôi sẽ làm riêng từng câu cho các bạn dễ quan sát. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, đây là cách phân tích hoàn toàn dựa vào chủ quan và trực giác, không phải cách để giúp các bạn nghe tốt, nên nếu ai không hài lòng khi đọc đến đây, rất mong các bạn có thể dừng đọc giúp tôi. Câu 11: Sau khi loại đi đáp án b, tôi cho rằng sẽ là logic nhất khi chọn đáp án c (ở đây các bạn tự lo bữa sáng, còn bữa trưa và tối thì chúng ta ăn cùng nhau). Đây là một Sportprogramm tập thể chứ không phải chương trình huấn luyện đặc biệt giảm cân, tôi không nghĩ là cứ sáng sáng lại có người gọi cho từng thành viên tham gia để hướng dẫn xem hôm nay bạn nên ăn gì. Câu 12: Cả 3 đáp án mà đề bài ra đều có thể xảy ra, mỗi đáp án trả lời cho một câu hỏi như tôi đã viết trong hình. Việc các bạn nghe đáp án cho câu này vì thế sẽ dễ hơn nếu bạn tập trung, nhưng tôi vẫn muốn đề xuất đáp án phán đoán của mình, dựa vào trực giác. Vì đây là một chương trình tập luyện thể thao, không phải đoàn leo núi hay là trong quân đội, tôi không nghĩ ở Đức người ta lại bắt mọi người là có mặt lúc mấy giờ, hay là tập trung ở đâu như kiểu ở Việt Nam. Phán đoán của tôi ở đây là đáp án b. Câu 13: Người tham gia sẽ phải đăng kí sớm cho một trong 3 chương trình được nêu ra ở đáp án: một khóa học liên quan đến môn chơi bóng (ví dụ như bóng rổ), một Tour đi xe đạp và thuê sân để đánh Tennis theo giờ. Đăng kí sớm liên quan đến sự chuẩn bị phức tạp hơn, do vậy tôi không nghĩ có chương trình nào cần chuẩn bị nhiều hơn là việc tổ chức hẳn 1 Tour đi xe đạp. Đáp án tôi hướng đến là b. Câu 14: Sau khi loại đáp án a, tôi nghĩ cả 2 đáp án b và c đều có khả năng xảy ra như nhau. Tôi gạch chân 2 từ „besuchen“ và „trainieren“ để các bạn tiện cho việc tập trung nghe của mình hơn. Cá nhân tôi phán đoán rằng, có thể người ta sẽ muốn nói đến nhiều hơn là việc tập luyện, nên ngoài tập luyện, có thể sẽ còn có tham quan Sportgeschäft. Do đó tôi phán đoán đáp án b. Câu 15: Cả 3 đáp án trong câu này thực chất đều có thể xảy ra. Nhưng với tính chất một Abschlussfeier, việc có đồ ăn hay nhảy nhót trong bữa tiệc là những việc tôi cho là rất hiển nhiên, nên tôi không nghĩ người ta phải đề cập đặc biệt đến những thứ như thế này. Do vậy, tôi phán đoán đáp án c là đáp án đúng. Sau khi kiểm tra lại Lösung của đề thi, tôi đã làm đúng 4/5 câu, chỉ sai duy nhất câu 14, dù thậm chí còn chưa bắt đầu nghe. Tất cả những đáp án tôi cho là không thể đúng thì đều không phải đáp án thật. Tuy vậy, việc đúng từng này câu tôi cho là nhờ may mắn khá nhiều. Cái mà tôi muốn các bạn hướng đến, cũng tương tự như khi làm bài đọc, hãy luôn tạo ra các Vermutungen (phán đoán chủ quan), bởi vì việc kiểm tra một phán đoán là đúng hay sai bao giờ cũng dễ hơn việc tìm kiếm thông tin để khoanh cho được đáp án đúng. Khi đó, các bạn cũng sẽ „nghe có định hướng“ hơn, và tỉ lệ các bạn nghe ra cái gì cần nghe sẽ cao hơn. Ngoài ra, tôi cũng biết có rất nhiều bạn kĩ năng nghe chưa tốt (chủ yếu là do phát âm sai và ít chịu nghe thường xuyên), nên vào phòng thi gặp những bài nghe 1 lần thế này thường là rất sợ và căng thẳng. Phương pháp này sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng rất nhiều trong phòng thi. Còn nếu các bạn thực sự không thể nghe nổi vì lý do nào đó, gợi ý của tôi trên đây là một cách không tồi để các bạn phán đoán đáp án, chí ít là cũng tốt hơn hoàn toàn khoanh bừa, phải không? Chúc các bạn thành công với bài thi nghe! Tác giả: Kobe Minh họa: Bích Diệu
Những người ngồi nhiều khi làm việc sẽ dễ bị áp lực, căng thẳng và mất tập trung. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu làm sao để vừa có một ngày làm việc hiệu quả lại vừa có thể rèn luyện sức khỏe nhé. Liệu bạn có biết rằng mình đã đi bao nhiêu bước một ngày? Đặc biệt nếu bạn có một công việc văn phòng, con số ấy chưa chắc lên nổi 2.000 bước, trong khi số bước chân lí tưởng mà một người cần mỗi ngày là ít nhất 10.000 bước. Tuy nhiên, các vấn đề về cơ do ngồi liên tục và thiếu vận động chỉ là hai trong nhiều yếu tố có thể dẫn đến mệt mỏi, căng thẳng và những cơn đau ở các bộ phận cơ thể. Với bảy lời khuyên sau đây, bạn có thể đạt được hiệu suất làm việc cao hơn, nhiều động lực hơn cũng như hạn chế thời gian “chết” khi làm việc! CÂN ĐỐI VÀ KHỎE MẠNH NƠI CÔNG SỞ – CÙNG BẮT ĐẦU THÔI NÀO! 1. Tăng cường vận động trên chính con đường đi làm hàng ngày Bạn có thể rèn luyện nhờ vào chính con đường đi làm quen thuộc. Đầu tiên bạn có thể chọn đạp xe thay vì đi ô tô hay các phương tiện công cộng để đi làm. Hoặc đơn giản hơn bạn có thể chọn cách xuống xe sớm trước khoảng 1 bến và đi bộ nốt quãng đường còn lại. Điều này giúp việc tuần hoàn trong cơ thể được lưu thông và cung cấp thêm oxy cho cơ thể. 2. Thường xuyên đứng dậy Đôi lúc việc ngồi lì trong 1 giờ đồng hồ là đủ khiến bạn cảm thấy mệt mỏi. Vì vậy, bạn cần đứng dậy di chuyển nhẹ nhàng. Ví dụ như thay vì nhờ đồng nghiệp lấy giùm ly cà phê thì bạn có thể tự mình đi lấy. Ngoài ra bạn có thể vừa đứng vừa gọi điện thoại trong văn phòng hoặc đứng họp với đồng nghiệp thay vì cứ mãi ngồi im. 3. Sắp xếp thời gian nghỉ trưa hợp lý Việc rời công việc để dành thời gian cho bữa trưa đôi khi cực kì khó khăn. Tuy vậy, các quãng nghỉ là rất quan trọng và đặc biệt, thời gian nghỉ trưa đóng vai trò thiết yếu để lấy lại sự tỉnh táo cũng như giúp bạn “sạc pin” cho nửa ngày làm việc còn lại. Chính vì vậy, nếu có khả năng, bạn nên thử đi dạo xung quanh và đổi gió bằng việc thưởng thức bữa trưa trong một nhà hàng gần đó hay đơn giản là trên một băng ghế nào đó trên đường đi dạo. 4. Bổ sung năng lượng bằng chế độ dinh dưỡng thích hợp Lí tưởng hơn cả là bạn có thể tự chuẩn bữa ăn của mình bằng nguyên liệu tự mua và sử dụng hộp cơm hữu cơ không chứa hóa chất BPA độc hại. Chỉ khi tự mình nấu nướng, bạn mới biết được chính xác trong đó chứa những chất dinh dưỡng và Vitamine cần thiết nào và sẽ không chỉ vì tiện lợi mà tìm đến Pizza, Döner, khoai tây chiên và các loại đồ ăn nhanh khác. Các loại hạt, đặc biệt là hạt óc chó, rất giàu protein, khoáng chất và chất xơ giúp cung cấp năng lượng nhanh chóng, vô cùng lý tưởng để sử dụng làm món ăn nhẹ giữa các bữa ăn. Táo cũng là lựa chọn tuyệt vời với hàm lượng đường thấp và không gây tăng đường trong máu quá nhanh. Ngoài ra, sữa chua Hy Lạp có thể giúp bạn no nhanh hơn và ngăn chặn cảm giác thèm ăn. 5. Tập các bài tập đơn giản ngay tại văn phòng để thư giãn Ngồi nhiều, làm việc trên máy tính lâu và áp lực sẽ càng khiến bạn rơi vào căng thẳng, đặc biệt vùng cổ và vai thường bị ảnh hưởng. Điều này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đau đầu. Các bài tập ngắn và đơn giản có thể giúp bạn thả lỏng hơn. Các bạn có thể thực hiện vài động tác như xoay tròn đầu và vai, ngồi thẳng lưng dang ngang hai tay, đẩy vai ra sau và giữ yên tư thế khoảng hai đến năm giây mỗi lần. 6. Hít thở đúng cách Các bài tập thở cũng có thể làm giảm áp lực và giải tỏa căng thẳng. Thông thường khi hô hấp, chúng ta chỉ sử dụng một phần của phổi. Tuy nhiên, những người sử dụng toàn bộ cơ hoành có thể mang lại hiệu quả tích cực đến sức bền và thể chất cơ thể. Một bài tập hít thở phổ biến là bạn có thể hít một hơi sâu, giữ nguyên trong 10 giây rồi sau đó chậm rãi thở ra trong mười giây và cứ thế lặp lại tương tự với các lần sau. Ngoài ra, một tràng cười thật sảng khoái cũng có thể làm giãn cơ hoành. 7. Uống nước đầy đủ Nước là một nhân tố không thể thiếu của một lối sống lành mạnh. Vì vậy, bạn cần uống nhiều nước hoặc trà không đường trong giới hạn nhất định, đồng thời tránh xa các loại nước ngọt có ga nhiều đường. Lượng nước tối thiểu bạn nên uống là 1,5 lít/ngày. Uống đủ nước mỗi ngày còn giúp bạn tránh xa những cơn đau đầu nữa. Chuyển dịch: Quỳnh Trang Minh họa: Bích Diệu Bài viết gốc với tiêu đề “7 Tipps: Fit und gesund am Arbeitsplatz” được đăng trên https://so-gesund.com/7-tipps-fit-und-gesund-am-arbeitsplatz/. Dưới đây là nội dung bài viết gốc để các bạn tham khảo văn phong và từ vựng. Wer in seinem Job viel sitzt, leidet oft unter Verspannungen, Müdigkeit und Konzentrationsschwierigkeiten. So kommen Sie fit und gesund durch den Arbeitstag Wissen Sie, wie viele Schritte Sie pro Tag gehen? Wenn Sie einen Bürojob haben, kann es sein, dass Sie nicht mal auf 2.000 kommen. Ideal sind jedoch mindestens 10.000 Schritte täglich. Doch die einseitige Belastung der Muskulatur durch permanentes Sitzen und mangelnde Bewegung sind nur zwei Faktoren, die zu Müdigkeit, Verspannungen und Schmerzen führen können. Mit diesen sieben Tipps erlangen Sie mehr Leistungsfähigkeit, Motivation und weniger Ausfallzeiten im Büro! FIT UND GESUND IM BÜRO – SO GEHT’S! 1. Aktiv zur Arbeit Bereits der Weg zur Arbeit kann Ihnen helfen, fitter durch den Tag zu kommen. Schwingen Sie sich aufs Rad, anstatt das Auto oder die öffentlichen Verkehrsmittel zu benutzen. Oder steigen Sie zumindest eine Station früher aus, und gehen den Rest zu Fuß. So kommt Ihr Kreislauf in Schwung, und Ihr Körper wird mit Sauerstoff versorgt. 2. Regelmäßig aufstehen Manchmal reicht schon eine Stunde Sitzen aus, um sich eingerostet oder müde zu fühlen. Hier hilft regelmäßige Bewegung. Lassen Sie Ihren Kaffee nicht vom Kollegen mitbringen, sondern stehen Sie selbst auf, drehen beim Telefonieren eine Runde im Büro oder halten das nächste Meeting mit Ihren Kollegen einfach mal im Stehen ab. 3. Mittagspause richtig gestalten Die Versuchung, mittags am Schreibtisch sitzen zu bleiben, ist manchmal sehr groß. Doch Unterbrechungen sind wichtig und gerade die Mittagspause ist essenziell um den Kopf wieder frei zu kriegen und neue Energie für die zweite Hälfte des Tages zu tanken.Deshalb: Wenn es die Möglichkeit gibt, gehen Sie auf jeden Fall raus, drehen eine Runde um den Block, und setzen Sie sich zum Essen in ein Restaurant oder auf eine Bank. 4. Power durch richtige Ernährung Im Idealfall haben Sie am Abend zuvor mit gesunden, regionalen Zutaten gekocht und sich eine Portion in einer BPA-freien Box mitgebracht. So wissen Sie genau, was drin ist, führen Ihrem Körper wichtige Nährstoffe und Vitamine zu und landen am Ende nicht doch aus Bequemlichkeit bei Pizza, Döner, Pommes und Co. Optimal als Snack für Zwischendurch sind Nüsse, insbesondere Walnüsse, die reich an Proteinen, Mineral- sowie Ballaststoffen sind und schnell Energie liefern. Auch Äpfel eignen sich hervorragend und lassen durch ihren geringen Zuckergehalt den Blutzuckerspiegel nur langsam steigen. Griechischer Joghurt sättigt schnell und beugt Heißhungerattacken vor. 6. Einfache Büroübungen zur Auflockerung Viel Sitzen, Schreiben am Rechner und Stress fördern Verspannungen. Besonders der Nacken- und Schulterbereich ist davon oft betroffen. Nicht selten resultieren daraus Kopfschmerzen. Kurze und einfache Übungen können Linderung schaffen. Hierfür den Kopf und die Schultern kreisen lassen sowie in geradem Sitz mit waagerecht ausgestreckten Armen die Schultern nach vorn und hinten schieben und jeweils circa zwei bis fünf Sekunden halten. 6. Richtig atmen Auch Atemübungen können Stress abbauen und Verspannungen lösen. Oft atmen wir nur in einen Teil der Lunge. Wer jedoch das ganze Zwerchfell benutzt, kann dadurch seine Ausdauer und körperliche Energie positiv beeinflussen. Tief ein- und ausatmen sowie 10 Sekunden lang schnelles Ein- und Ausatmen sind beliebte Übungen. Aber auch ein herzhafter Lachanfall kann die Muskulatur des Zwerchfells entspannen. 7. Ausreichend trinken Trinken ist essenziell für eine gesunde Lebensweise. Dabei sollten Sie sich auf Wasser oder ungesüßten Tee beschränken und von zuckerhaltigen Softdrinks lieber die Finger lassen. Trinken Sie in regelmäßigen Abständen circa 1,5 Liter über den Tag verteilt. Auch bei Kopfschmerzen kann Flüssigkeitszufuhr Abhilfe schaffen
Tiếng Đức có 3 cách thức sử dụng động từ, bao gồm: Indikativ – thể thức khẳng định Imperativ – mệnh lệnh thức, và Konjunktiv – cách chia động từ để dùng khi muốn nói về một chuyện không có thật, một khả năng, một mong muốn… có thể xảy ra, hoặc khi đổi từ lời đối thoại sang câu kể (tiếng Đức gọi là Möglichkeitsform). Konjunktiv lại được chia làm 2 cách như sau: A. CÁCH DÙNG KONJUNKTIV 1 3 trợ động từ sein, haben và werden được chia trong Konjunktiv 1 như sau: sein – waren – gewesen Konjunktiv 1: ich sei du sei(e)st er/sie/es sei wie seien ihr sei(e)t sie/Sie seien haben – hatten – gehabt Konjunktiv 1: ich habe du habest er/sie/es habe wir haben ihr habet sie/Sie haben werden – wurden – geworden Konjunktiv 1: ich werde du werdest er/sie/es werde wir werden ihr werdet sie/Sie werden 1. Konjunktiv 1 thường dùng khi đổi lời hội thoại sang câu kể: Người kể lại dùng Konjunktiv 1 để thể hiện khoảng cách với người nói, với ý là “anh ta/cô ấy nói như vậy, nhưng tôi không chắc chắn” hoặc “tôi chỉ nhắc lại lời của họ thôi” – giống một cách khẳng định sự vô tư, khách quan của mình, dành quyền phán xét cho người nghe. Bằng cách này, người kể đồng thời cũng không cần đảm bảo độ chính xác của những câu nói được lặp lại. Ví dụ: Die Zeitung schreibt, die Theateraufführung sei ein Erfolg gewesen = Tờ báo viết rằng, vở diễn đã rất thành công. Der Reporter fragte den Erfinder, ob sein Gerät schon im Laden gekauft werden könne (đây là cách dùng Konjunktiv Passiv, là thể bị động, mình sẽ viết cụ thể hơn về chủ đề này vào dịp khác) = Phóng viên hỏi nhà phát minh, liệu mọi người đã có thể mua thiết bị của ông (sáng chế ra) ở ngoài cửa hiệu chưa? Ihre Kolleginnen behaupten, sie habe gemogelt = Các nữ đồng nghiệp của cô ấy khẳng định rằng, cô ta đã gian lận/lừa đảo. ***Để rõ ràng hơn thì khi cách chia động từ sang Konjunktiv 1 giống với Indikativ, ta sẽ dùng Konjunktiv 2 thay thế, ví dụ: Vì câu “Die Gegner glauben, sie haben die besseren Argumente” không rõ ràng, nên ta phải nói: Die Gegner glauben, sie hätten die besseren Argumente = Đối thủ tin (tưởng) rằng, họ nắm trong tay những lập luận hay ho hơn (ý ở đây là “nhưng chưa chắc đâu nhé/đừng tưởng bở nhé”!!) Manche Raucher meinen, sie dürften (đáng lẽ là “dürfen”) überall ihren Qualm verbreiten = Nhiều người hút thuốc cho rằng, họ được phép nhả khói khắp nơi (hay sao đó??!!) Viele glauben, die Politiker redeten zu viel und handelten zu wenig = Nhiều người cho là, các chính trị gia nói thì quá nhiều mà làm thì quá ít. 2. Konjunktiv 1 còn dùng trong các câu hướng dẫn, chỉ dẫn, huấn thị (trong công thức nấu ăn hay bài toán đố …), ví dụ: Man nehme 300g Mehl und füge 3 Eier hinzu … = Ta lấy 300g bột mỳ và thêm vào đó 3 quả trứng. Gegeben seien zwei Geraden … = Ta có hai đường thẳng… 3. Konjunktiv 1 cũng dùng khi so sánh hoặc thú nhận điều gì, ví dụ: Ich gehe morgen baden – und sei es noch so kalt = Ngày mai tôi quyết đi bơi/đi tắm – kể cả trời có lạnh mấy đi chăng nữa! Er tat, als ob er mit allem einverstanden sei (hoặc dùng Konjunktiv 2 là “wäre” thay cho “sei”) = Anh ta làm ra vẻ là đồng ý với tất cả (mọi người/mọi việc). B. CÁCH DÙNG KONJUNKTIV 2: 1. Konjunktiv 2 chỉ dùng trong 2 thời là Präteritum và Plusquamperfekt, và trong câu chủ động (Aktiv) nó sẽ được chia như sau: 1.1. Ở thời Präteritum >>> dùng gốc của động từ trong thời Präteritum và thêm đuôi -e. -est, -e, -en, -et, -en. Với các động từ bất quy tắc thì thay đổi cả nguyên âm, ví dụ: kaufen – kaufte – gekauft Konjunktiv 2: ich kaufte du kauftest er/sie/es kaufte wir kauften ihr kauftet sie/Sie kauften sprechen – sprach – gesprochen Konjunktiv 2: ich spräche du sprächest er/sie/es spräche wir sprächen ihr sprächet sie/Sie sprächen gehen – ging – gegangen Konjunktiv 2: ich ginge du gingest er/sie/es ginge wir gingen ihr ginget sie/Sie gingen 1.2. Ở thời Plusquamperfekt >>> chia 2 trợ động từ haben/sein theo nguyên tắc Konjunktiv 2 thời Präteritum và kèm theo Partizip 2 của động từ chính, ví dụ: kaufen – gekauft haben: ich hätte gekauft du hättest gekauft er/sie/es hätte gekauft wir hätten gekauft ihr hättet gekauft sie/Sie hätten gekauft gehen – gegangen sein: ich wäre gegangen du wär(e)st gegangen er/sie/es wäre gegangen wir wären gegangen ihr wär(e)t gegangen sie/Sie wären gegangen *** Cách dùng cho thể bị động (Passiv) sẽ được nhắc tới ở một bài viết khác! 2. Khi nào ta dùng Konjunktiv 2? Konjunktiv 2 thường dùng trong câu nói hàng ngày, đặc biệt là trong các câu đặt ĐIỀU KIỆN và là cách nói LỊCH SỰ, và hầu hết ta dùng Konjunktiv 2 khi ta muốn kể về một chuyện KHÔNG CÓ THẬT hoặc KHÔNG/CHƯA THỂ XẢY RA, ví dụ: 2.1. Khi tưởng tượng hoặc nói về một sự việc không thực tế: Ich wäre jetzt gern auf Hawaii (… ich bin es aber nicht) – Giá mà bây giờ tôi đang ở Hawaii … Alina hätte mir bei den Hausaufgaben geholfen (… sie war aber nicht da) – Đáng lẽ Alina đã giúp tôi làm bài tập về nhà … (nhưng cô bạn đã không đến) 2.2. Dùng Konjunktiv 2 trong cả câu chính và câu phụ khi nói về một điều kiện không thực tế. Tuy nhiên, nếu điều kiện này còn có thể đáp ứng thì dùng thời Präteritum, nhưng nếu điều kiện không có khả năng thực hiện nữa thì dùng Plusquamperfekt: Wenn er käme, könnten wir anfangen (… er kann noch kommen) – Nếu anh ấy đến, chúng ta có thể bắt đầu (… tuy không chắc chắn, nhưng anh ấy còn có thể đến) Wenn er gekommen wäre, hätten wir anfangen können – Giá mà anh ấy đến thì chúng ta đã có thể bắt đầu (điều kiện không thể thực hiện được nữa) 2.3. Khi nói đến một mong muốn/mơ ước không thực tế, mà một là tạm thời chưa thực hiện được (dùng Konjunktiv 2 Präteritum) hoặc không thể thực hiện được nữa (dùng Konjunktiv 2 Plusquamperfekt): Wäre ich doch schon 18 Jahre alt … – Giá mà tôi đã được 18 tuổi thì … (vẫn còn xảy ra trong tương lai) Hätten wir doch nur gewonnen … – Giá mà chúng ta trúng thưởng … (không còn khả năng thực thi vì cuộc thi đã kết thúc) 2.4. Khi đề nghị hoặc hỏi ai đó một cách lịch sự: Könnten Sie das bitte stehen lassen! – Ngài có thể cứ để nguyên nó đấy được không ạ! Dürfte ich noch was Tee haben? – Tôi có thể uống/lấy thêm trà được không? 3. Dùng “würde” thay cho Konjunktiv 2: Thay vì cách chia Konjunktiv 2 như đã nói ở trên, hầu như ta dùng “würde” để nói chuyện hàng ngày. “würde” chính là Konjunktiv 2 của trợ động từ “werden”. Ta dùng würde + động từ nguyên thể Präsens hoặc würde + động từ chia thời Perfekt, ví dụ: Wenn Jakob käme, könnten wir losfahren. – Nếu Jakob đến, chúng ta sẽ lên đường/khởi hành – Dùng würde, ta sẽ có: Wenn Jakob kommen würde, könnten wir losfahren. Ob sie den Weg alleine gefunden hätte, bezweifle ich – Tôi rất hoài nghi, liệu cô ấy có tự tìm được đường không – Dùng würde ta sẽ có: Ob sie den Weg alleine gefunden haben würde, bezweifle ich. ***Cả hai cách dùng vừa nêu trong phần 3 này đều không thay đổi nghĩa của câu kể/câu nói. Tuy nhiên, trong câu chuyện hàng ngày, chúng ta sẽ thấy là mọi người thường dùng “würde” nhiều hơn, còn Konjunktiv 2 lại dùng trong câu viết nhiều hơn, và một số các động từ đã cũ hoặc khó dùng, người ta cũng dùng Konjunktiv bằng cách thêm “würde”, ví dụ: ich führe – ich würde fahren ich verlöre – ich würde verlieren ich wüsche – ich würde waschen ***Nếu cách chia Konjunktiv 2 trùng hợp với thời Präteritum, ta cũng nên dùng “würde” để tránh xảy ra nhầm lẫn, ví dụ: Thay vì nói là: Ich kaufte mir ein neues Hemd, wenn ich eines brauchte – thì ta nói: Ich würde mir ein neues Hemd kaufen, wenn ich eines brauchen würde. Tác giả: Cẩm Chi