Một trong những chủ đề quan trọng bậc nhất, đồng thời đóng vai trò là nền tảng cho việc sử dụng tiếng Đức trong thực tế, chính là Satzbau (cách xây dựng câu). Về lý thuyết, chúng ta có tổng cộng 3 mô hình khác nhau để phân tích và đánh giá một câu trong tiếng Đức. Tuy vậy, trong bài viết này, mình muốn dành thời lượng để đưa đến cho các bạn một cái nhìn khái quát và dễ hiểu nhất có thể về mô hình Valenz, mô hình phổ biến nhất và cũng là nền tảng cho nhiều cuốn sách, giáo trình dạy tiếng Đức nhất trong khoảng 40 năm trở lại đây.
Trước hết thì, “Valenz” có nghĩa là gì? Chúng ta có rất nhiều định nghĩa cho khái niệm này. Nguyên thủy thì khái niệm này xuất phát từ ngành hóa học, có nghĩa là “hóa trị” của một nguyên tố (nào, các bạn đừng bảo với mình các bạn không biết hóa trị là gì đấy nhé). Ngoài ra, đây cũng là khái niệm được dùng trong tâm lý học hay sinh thái học. Trong ngôn ngữ học, “Valenz” được sử dụng để mô tả thuộc tính của các từ trong một trường hợp cụ thể. Nghe có vẻ phức tạp nhỉ? Vậy ta cùng tìm hiểu xem định nghĩa đó nên được hiểu như thế nào!
Mô hình Valenz coi động từ là trọng tâm của một câu và diễn giải đại bộ phận những thành phần còn lại của câu phụ thuộc vào sự có mặt cũng như chức năng của động từ. Điều đó có nghĩa là, động từ tạo ra những không gian có kích cỡ khác nhau dành cho các thành phần bổ trợ khác, hay còn được gọi với thuật ngữ “Ergänzungen”. Động từ trong câu sẽ quyết định xem thành phần nào của câu là bắt buộc phải có, và để cho câu đúng ngữ pháp, các thành phần đó nên được sử dụng ở dạng như thế nào. Nói một cách đơn giản, động từ sẽ điều khiển các thành phần bổ trợ, ví dụ như chúng xác định cách của một tân ngữ, một “Ergänzung” hay xác định xem đối với động từ này thì sẽ cần có bao nhiêu “Ergänzungen”. Như vậy, đây chính là khái niệm “Valenz” của một động từ mà mình đã nhắc tới ở phía trên, hay còn có một tên gọi khác là “Wertigkeit”. Mỗi động từ trong tiếng Đức, do vậy, sẽ được chia thành nhiều loại với số lượng thành phần bổ trợ khác nhau.
Bài viết này, với hi vọng làm mọi thứ trở nên dễ tiếp cận hơn, sẽ chỉ giới thiệu với các bạn 3 loại sau đây:
- 1-wertige Verben: là những động từ chỉ cần một “Ergänzung” duy nhất.
Động từ “schlafen” chỉ đòi hỏi duy nhất chủ thể gây ra hành động ở Nominativ, ví dụ như: Ich schlafe (tôi ngủ).
- 2-wertige Verben: là những động từ có thể có 2 “Ergänzungen” khác nhau.
Động từ “backen” đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và đối tượng mà hành động hướng tới ở Akkusativ, ví dụ như: Mona backt einen Kuchen (Mona nướng một cái bánh).
Động từ “helfen” lại đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và đối tượng mà hành động hướng tới ở Dativ, ví dụ như: Giang hilft ihrer Mutter (Giang giúp đỡ mẹ của cô ấy).
Động từ “denken” đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và bổ trợ cho nó là một cấu trúc đi kèm giới từ, ví dụ như: Kobe denkt an seinen Urlaub (Kobe nghĩ đến kì nghỉ của anh ấy).
- 3-wertige Verben: là những động từ có thể có 3 “Ergänzungen” khác nhau.
Động từ “geben” đòi hỏi chủ thể gây ra hành động ở Nominativ và 2 đối tượng khác nhau mà hành động hướng tới, một ở Dativ và một ở Akkusativ, ví dụ như: Duc gibt mir ein Buch (Đức đưa cho tôi một quyển sách).
Ngoài các thành phần chính này, câu chỉ còn duy nhất một thành phần bổ trợ, được gọi là “Angaben”. Do mục đích và độ dài bài viết, mình sẽ để dành chủ đề này cho một bài viết khác. Quay lại với các loại động từ, mô hình Valenz cho chúng ta một cái nhìn cực kì rõ ràng về cách sử dụng động từ trong tiếng Đức: không chỉ đơn giản hiểu ý nghĩa của nó, mà quan trọng hơn, biết rõ ràng xem động từ đó được dùng như thế nào. Điều này sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều trong quá trình học mở rộng vốn động từ.
Tuy vậy, điều chưa tối ưu ở mô hình này là không phải lúc nào chúng ta cũng cần đến số lượng tối đa những thành phần bổ trợ của một động từ cụ thể.
Ta cùng xem xét một ví dụ với động từ “vermieten” (cho thuê). Đây rõ ràng là một động từ thuộc nhóm thứ 3 kể trên, vì nó có thể bao gồm chủ thể gây ra hành động ở Nominativ, đối tượng hành động hướng tới ở Akkusativ và một cấu trúc đi kèm giới từ “an” ở Akkusativ, ví dụ như:
- Herr Heigl vermietet die Wohnung an mich (Ngài Heigl cho tôi thuê căn hộ).
Thế nhưng, trong một số văn cảnh nhất định, ví dụ như một mẩu quảng cáo từ một khách sạn như sau:
- Das Hotel vermietet Konferenzräume (Khách sạn cho thuê phòng hội họp), điều mà ta thấy được là: việc nêu ra người muốn thuê lại là việc không cần thiết.
Giả sử người muốn thuê là một công ty, vậy mẩu quảng cáo sẽ trở thành:
- Das Hotel vermietet Konferenzräume an Firmen (Khách sạn cho các công ty thuê phòng hội họp). Điều này đồng nghĩa với việc các cá nhân, tổ chức khác sẽ không được phép thuê phòng nữa!
Nếu thay vào đó, ta viết:
- Das Hotel vermietet Konferenzräume an Interessierte (Khách sạn cho những người có nhu cầu thuê phòng hội họp). Điều này lại trở nên không cần thiết, vì không cần nhắc đến đối tượng thuê phòng này thì hầu như mọi người đọc đều có thể tự suy ra sau khi đọc mẩu quảng cáo ban đầu.
Nói tóm lại, chúng ta hãy cố gắng luôn luôn học nghĩa và cả cách dùng cụ thể của từng động từ theo mô hình Valenz. Tuy nhiên, biết về tất cả cách dùng không bao giờ có nghĩa là mỗi lần sử dụng một động từ, chúng ta nhất định phải sử dụng tối đa những thành phần bổ trợ mà nó sở hữu.
Tác giả: Kobe
Minh họa: Bích Diệu